Tuyên truyền kỷ niệm 74 năm ngày thành lập (10/1950-10/2024), 64 năm ngày giải phóng (30/8/1960-30/8/2024) và 24 năm tái lập huyện Bác Ái (01/01/2001-01/01/2024)

I.  QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN VÀ TÁI LẬP HUYỆN BÁC ÁI

1. Từ xây dựng chiến khu, phát triển thành huyện căn cứ địa vững mạnh toàn diện.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ ách cai trị thực dân và phong kiến tay sai, đồng bào Bác Ái cùng nhân dân cả nước vô cùng phấn khởi, tự hào bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, tự chủ. Tuy nhiên, nhân ta được hưởng quyền độc lập, tự chủ chưa được bao lâu thì ngày 28/1/1946, thực dân Pháp quay lại Ninh Thuận, nhanh chóng chiếm lại vùng đồng bằng, thị xã thị trấn, chúng tiến hành xây dựng lại bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, đưa các tên công sứ người Pháp trước đây trở lại nắm chính quyền và kêu gọi, mua chuộc bọn việt gian bán nước tay sai, tiến tới xây dựng các trung tâm quân sự vùng Ba Ngòi, Phú thọ, Hoà Trinh, Mỹ Tường...

          Trên quê hương Bác Ái, tháng 7/1946, hệ thống Tổng Lý tay sai của địch được khôi phục và bước đầu xây dựng lượng lượng vũ trang - Gum tại các thôn, đặt dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Cùng với thực dân, hệ thống tay sai ra sức đàn áp, khủng bố gắt gao làm cho phong trào cách mạng gặp rất nhiều khó khăn.

 Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1946, tỉnh ủy Ninh Thuận chủ trương mở rộng phong trào cách mạng lên các vùng miền núi trong tỉnh, tiến tới xây dựng thành các căn cứ địa, làm nơi đứng chân cho các cơ quan đầu não trong tỉnh, trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thực hiện nhiệm vụ đó, giữa tháng 8 năm 1946 Tỉnh ủy Ninh Thuận cử một đoàn cán bộ chiến sĩ lên vùng É Lâm hạ làm nhiệm vụ  tuyên truyền phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, vận động quần chúng nổi dậy đấu tranh cách mạng chống thực dân Pháp và bọn việt gian phản động. Về quân sự, trung đoàn 81 cử cán bộ lên vùng núi Xanh, Đá nhọn thuộc xã Phước Trung huyện Bác Ái (É Lâm Hạ) thành lập chiến khu 22 vào ngày 22 tháng 12 năm 1946 do đồng chí Mai Văn Tấn làm Đại đội trưởng. Sau 2 ngày trèo đèo, lội suối ngày 24/12/1946 đơn vị đến địa điểm tập kết và bắt tay xây dựng Chiến khu 22 (CK 22); cũng từ đây lực lượng vũ trang (LLVT) đầu tiên của huyện Bác Ái ra đời. Ngày 24/12/1946, được lấy làm Ngày Truyền thống của lực lượng vũ trang huyện Bác Ái.

Năm 1947 Phân phòng Quốc dân thiểu số Bác Ái ra đời đã giúp đồng bào thoát khỏi nạn con buôn nhủng nhiễu. Cuối năm 1947, đường mòn Hồ Chí Minh đi qua huyện Bác Ái, nối vùng tự do liên khu V với Tây Nguyên và Nam Trung bộ được hình thành. Trải qua thời gian kiên trì bám cơ sở xây dựng phong trào, cuối năm 1947, đầu năm 1948 nhiều thôn, xã ở huyện nhà được xây dựng chính quyền cách mạng. Đồng bào phát huy tinh thần đoàn kết, hăng hái tham gia các hội quần chúng: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân cứu quốc - hội của những người lao động cùng cực... Năm 1948 các đồng chí Chamaléa Chiến, Pinăng Ca (Phước Thành), Pi năng Thức, Kator Thà, Chamaléa Xăng (Phước Trung) Chamaléa Lực, Chamaléa Như, Chamaléa Thị Lực (Phước Chiến)... vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là những con chim đầu đàn của đồng bào các dân tộc huyện Bác Ái trong phong trào đấu tranh chống thực dân xâm lược, là hạt nhân gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, là lực lượng cầm ngọn đuốc sáng của Đảng soi đường dẫn lối cho đồng bào qui tụ, tập hợp làm cách mạng. Từ cuối năm 1948, khí thế cách mạng hừng hực khắp núi rừng Bác Ái. Đến tháng 10 năm 1950 Tỉnh uỷ Ninh Thuận quyết định tách khu căn cứ Bác Ái ra khỏi huyện An Phước, thành lập huyện căn cứ do đồng chí Trần Sinh (Ca) nguyên bí thư huyện Thuận Bắc làm Bí thư. Huyện Bác Ái ra đời từ đó, với các xã: Phước Trung, Phước Thành, Phước Kháng, Phước Chiến, Phước Thắng, Phước Đại và vùng miền tây Bác Ái (bao gồm dải đất từ Phước Chính, Phước Tiến, Phước Tân, Phước Hòa, Phước Bình ngày nay); toàn huyện có 60 thôn với khoảng 5.500 dân, trong đó có 30 thôn với 3.000 dân ta đã xây dựng được chính quyền cách mạng. Việc thành lập huyện được đồng bào các dân tộc trong huyện đồng tình, phấn khởi. Từ đây, phong trào đấu tranh của nhân dân Bác Ái được sự trực tiếp chỉ đạo của Ban cán sự huyện nhà, là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng đi lên giành thắng lợi.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta đập tan cứ điểm quân sự Điện Biên Phủ của thực dân Pháp, một cứ điểm mạnh nhất của địch ở Đông Dương, buộc địch phải ngồi vào vòng đàm phán, ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ với ta vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, với nội dung “Hai bên ngừng hoạt động vũ trang...các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân 3 nước Việt Nam, Lào, Cam-Pu-Chia; Pháp rút quân khỏi chiến trường Đông Dương; hai bên lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự, tạm thời chia nước ta làm hai miền...”. Cuối tháng 7 năm 1954, trên núi rừng Bác Ái không còn bóng quân xâm lược. Trải qua những năm tháng đấu tranh gian nan, khổ cực, đánh đổi nhiều hy sinh mất mát, đồng bào Bác Ái phấn khởi, tự hào bước vào cuộc sống tự do, hoà bình, với nhiệm vụ cách mạng  mới.

2. Đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Giơnevơ, tiến lên giải phóng quê hương Bác Ái.

Thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ về Đông dương, cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta sang một giai đoạn mới. Cán bộ và đồng bào huyện Bác Ái vô cùng phấn khởi, tự hào nhưng niềm vui chưa thực sự trọn vẹn vì một nửa nước ta - Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, một nửa - Miền Nam còn trong tay giặc. Đảng bộ và nhân dân buyện Bác Ái xác định con đường của cuộc đấu tranh sắp tới còn khó khăn, phức tạp, còn đòi hỏi nhiều hy sinh thử thách lớn lao, nhưng với truyền thống đoàn kết, kiên cường anh dũng, đồng bào các dân tộc huyện nhà sẵn sàng hy sinh tất cả để cùng nhân dân Miền Nam đấu tranh, đập tan ách cái trị của thực dân mới.

 Được Mỹ hà hơi tiếp sức, Chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách “Bài phong, đả thực, chống cộng”, xây dựng bộ máy chiến tranh; thành lập nên các tổ chức chính trị phản động như: Đảng cần lao nhân vị; Đảng Đại Việt; Thanh Niên cộng hoà; Phụ nữ liên đới; phong trào cách mạng Quốc gia; xây dựng lực lượng cảnh sát; cải tổ quân đội tiến tới đẩy mạnh chính sách “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.Ở Bác Ái,  chúng vừa khủng bố thẳng tay những người kháng chiến cũ, vừa dùng các trò mỵ dân dụ dỗ đồng bào, nói xấu cán bộ, kìm kẹp gắt gao và tàn sát dã man phong trào đấu tranh của đồng bào. Thực hiện chính sách “tố cộng”, địch bắt đồng bào tham gia các lớp học tố cộng để truy bắt đảng viên, cán bộ; thực hiện   chính sách “tự trị của người dân tộc” hòng thực hiện ý đồ “lấy người dân tộc trị người dân tộc”. Cuối năm 1957, địch tổ chức càn quét, xúc dân về các trại tập trung: Đồng Dày, Bà Râu, Cà Rôm, Tầm Ngân... Đồng bào các dân tộc trong huyện một lần nữa phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất trước bạo lực cường quyền của địch; kiên trì bám rẫy, bám làng “một tấc không đi, một li không dời”, đấu tranh bất hợp tác với kẻ thù, đấu tranh giằng co bằng lý lẽ với địch. Trước sự đánh phá ác liệt và dồn dân của kẻ thù, vì sự sống còn của bản thân, đồng bào đã âm thầm tự vót chông, đào hầm cài cắm, bố phòng quanh ruộng rẫy; quyết đấu tranh tới cùng để bảo vệ núi rừng ông bà.

Trước sự kháng cự quyết liệt của đồng bào Bác Ái, địch điên cuồng tăng cường lính cơ động càn quét, khủng bố gắt gao. Đầu năm 1958, bản Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẫn đã đến với đồng bào miền Nam, là ngọn gió mới cho phong trào đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới, tiến lên giải phóng miền Nam thống nhất đất nước: “Con đường cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của quân thù, phải khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân...”.

Trước tình hình đó, Huyện ủy Bác Ái chủ trương: Lãnh đạo nhân dân còn lại  tăng gia sản xuất, làm kho cất dấu lương thực trong núi, bố phòng cẩn mật, ngăn chặn địch càn quét dồn dân xuống trại tập trung và đốt phá làng; thành lập tổ vũ trang nòng cốt và tổ chức lực lượng thanh niên tự vệ ở các xã để bảo vệ căn cứ, bảo vệ dân. Lựa chọn, bồi dưỡng những thanh niên ưu tú, kiên trung từng trốn các trại tập trung thành những cốt cán, vững vàng rồi tìm cách bí mật “cấy” lại vào các trại tập trung để làm nòng cốt lãnh đạo nhân dân chuẩn bị thế, lực bung trại trở về núi khi có thời cơ.

Phong trào đấu tranh cách mạng trên địa bàn huyện Bác Ái trong những tháng cuối năm 1958 đã trải qua thời kỳ chuyển dần từ thế bị kìm kẹp, bị động sang thế chủ động, mối liên hệ giữa Đảng với dân được củng cố bền chặt, tạo ra những thành công bước đầu rất quan trọng. Có được thành công đó là nhờ sự sáng suốt lãnh đạo của Đảng, biết dựa vào núi rừng để xây dựng căn cứ vững mạnh, biết tin tưởng ở sức mạnh của quần chúng nhân dân; thực hiện tốt chính sách dân tộc để tạo thế đứng vững, hình thành thế trận lòng dân. Thắng lợi trên đã tạo cơ sở bước đầu để tiến lên giải phóng quê hương sau này.

Trong khí thế cách mạng đang lên. Tháng 3 năm 1959, thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đồng chí Pinăng Tắc và Chamaléa Năm cùng lực lượng cốt cán khoảng 30 người băng rừng cắt núi, bí mật chuyển lên vùng tây Bác Ái (Phước Bình) làm nhiệm vụ vận động đồng bào nổi dậy diệt ác trừ gian, phá kìm kẹp để tiếp tục giải phóng một số làng, phá trại tập trung, mở rộng thế đứng. Đầu năm 1960, đồng bào các xã miền tây Bác Ái đã phá bỏ xiềng xích nô lệ, đập tan trại tập trung Tầm Ngân, giải thoát gần 4000 ngàn dân trở về buôn làng cũ.

Cuộc nổi dậy phá các trại tập trung Bà Râu, Cà Rôm, Đồng Dày, Sông Trâu, Tầm Ngân của đồng bào các dân tộc huyện Bác Ái giành thắng lợi đã gây tiếng vang lớn, lan rộng khắp nơi, đã cổ vũ tinh thần đấu tranh cho đồng bào vùng cực Nam trung bộ trong những năm đấu tranh tiếp theo; là gương sáng, là bài học kinh nghiệm cho đồng bào miền Nam vùng dậy đấu tranh đập tan ách cai trị của đế quốc và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Phá trại tập trung đưa dân về núi, Đảng bộ huyện phải đương đầu với một thử thách mới, nhân dân trở về rất đông, trên 9000 người, lo cái ăn cái mặc đâu có dễ, vì phần lớn nương rẫy, làng mạc bị hoang tàn sau những lần địch càn quét xúc dân. Nhà cửa, đồ dùng cần thiết hàng ngày không còn một thứ gì, lại đúng vào mùa mưa gió lạnh; cuộc sống của đồng bào ra sao? Trong khi kẻ địch đang điên cuồng, lồng lộn muốn trả thù và xúc dân trở lại khu tập trung một lần nữa ?.

Đúng như dự đoán của Đảng, kẻ địch không chịu khoanh tay để nhìn phong trào cách mạng phát triển đi lên. Tháng 9 năm 1959, địch huy động 1 trung đoàn, tổ chức cuộc càn quét với qui mô lớn mang tên “Tây Khánh - Bắc Ninh(1) đánh vào huyện Bác Ái hơn một tháng ròng. Những cuộc đấu tranh của đồng bào với kẻ địch diễn ra rất quyết liệt. Ta đã tiêu diệt ổ gián điệp của địch, bẻ gãy cuộc càn quét đó. Cay cú với thất bạo đó, với lực lượng và được trang bị vũ khí hiện đại, tiến hành càn quét, dồn dân vào các khu tập trung mới. Rút kinh nghiệm từ những thất bại trước, lần này địch không đưa dân xuống đồng bằng nữa mà xây dựng những khu tập trung dân ngay trên núi và đóng đồn giữ. Ở Bác Ái, địch đã xây dựng được đồn Tà Lú - Phước Đại, Ma Ty - Phước Thắng, Đầu Suối - Phước Chiến. Trong khó khăn, đồng bào ta đã đoàn kết, đấu tranh mưu trí với địch. Địch buộc đồng bào ta vào trại tập trung, đồng bào đấu tranh lý lẽ và xin được dời về sống gần khu tập trung cho địch quản lý, để được tự do đi lại tăng gia sản xuất. Nhưng thực chất phần lớn là các ông già bà bào và phụ nữ, trẻ em, còn thanh niên lực lượng đều trốn sâu vào rừng, tập hợp lực lượng, rèn luyện, bố phòng cẩn mật, xây dựng căn cứ, tạo nên thế trận bao vây đồn địch.

Ngày 28 tháng Tám năm 1960, khi thời cơ cách mạng đã đến; dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đồng bào Bác Ái vùng dậy đồng khởi phá tan đồn Tà Lú, Ma Ty. Ở đồn Đầu Suối, quân dân xã Phước Chiến dùng vũ khí thô sơ bao vây  làm địch mất ăn mất ngủ; cuối cùng đêm 30 tháng 8 năm 1960 địch bỏ đồn tháo chạy. Nghe tin địch thất thủ ở các trại tập trung trên, số lính trấn giữ ở các đồn Đồng Dày, Ma Trai và Ruộng Dân cũng hỗn loạn và buông súng. Bác Ái là huyện đầu tiên của miền Nam được giải phóng.

3. Cùng đồng bào trong tỉnh và đồng bào miền Nam đấu tranh đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sau khi giải phóng, tỉnh ủy chủ trương xây dựng Bác Ái thành căn cứ địa cách mạng vững chắc, là nơi cung cấp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến. Tháng 12 năm 1960, huyện ủy Bác Ái tổ chức thành lập Mặt trận dân tộc tự trị; đây là ngày hội lớn nhất của đổng bào các dân tộc, có ý nghĩa chính trị to lớn, nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, tôn giáo, đảng phái thành một khối thống nhất, đoàn kết một lòng theo Đảng, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đồng bào huyện Bác Ái chào mừng Đại hội bằng tấm lòng chân thật của mình, họ mang đến biếu đại hội từ con heo, con gà, gùi bắp, ché rượu cần quý giá.

Sau Đại hội, đồng bào trong huyện vô cùng phấn khởi và tự hào tin tưởng, khi được Đảng soi đường dẫn lối sẽ tạo thành sức mạnh vô địch đánh tan bọn cướp nước và lũ bán nước; làm dấy lên phong trào toàn dân tham gia bố phòng, thanh niên hăng hái gia nhập dân quân du kích, đi bộ đội và đi dân công phục vụ kháng chiến và tích cực tham gia xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh. Để tạo điều kiện giúp đỡ nhau trong sản xuất, phân công nhau đi bố phòng; đồng bào tổ chức các tổ vần công. Nhờ đó, đời sống vật chất của đồng bào được cải thiện, hỗ trợ cho phong trào văn hoá văn nghệ, vệ sinh phòng chống dịch bệnh; nhiều con em đồng bào dân tộc thiểu số được Đảng tạo điều kiện cho ra Bắc học tập, công tác... cuộc sống tươi vui, ấm no hạnh phúc đang hồi sinh trên vùng căn cứ Bác Ái.

Sự lớn mạnh của huyện căn cứ Bác Ái là nỗi căm tức, lo sợ của kẻ thù. Vì thế địch càng đẩy mạnh càn quét kết hợp với hoạt động gián điệp, biệt kích, phi pháo yểm trợ hòng đè bẹp ý chí của quân dân ta. Tính trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1963, địch tổ chức 13 cuộc càn quét với qui mô lớn có phi pháo yểm trợ, 20 lần lực lượng bộ binh từ 100 đến  400 quân ngụy, có khi lên đến 1000 tên, có sự chỉ huy của cố vấn quân sự Mỹ đánh vào huyện căn cứ Bác Ái; thời gian mỗi lần đánh phá kéo dài từ 2 đến 5 ngày. 

 Để chống lại cuộc càn quét này, du kích và đồng bào Bác Ái đã dùng mọi vũ khí thô sơ để chống trả vũ khí hiện đại của chúng. Khi kế hoạch đã được vạch, quân dân vùng Phước Bình, Phước Hòa do anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Pinăng Tắc chỉ huy đã phát động phong trào vót chông, làm bẫy, cung ná... Già, trẻ, gái, trai thi nhau không kể ngày đêm, lao động tích cực, hăng say và chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng mai phục đã có được 17 sạp chất đầy đá treo lơ lửng trên vách núi; dưới vực với hàng ngàn chông các loại vây quanh khu vực mai phục; cùng với cung tên, gậy gộc... Kết quả trận đánh đem lại thắng lợi to lớn, hơn 100 tên địch bị tiêu diệt; song đáng sợ nhất là những tên dẫm phải bàn chông sắt phải lên máy bay cùng với nỗi đau đớn, khiếp sợ.  

Với tinh thần tự lực tự cường, vượt qua khó khăn gian khổ, đồng bào kết hợp chiến đấu với sản xuất nhằm bảo đảm lương thực, xứng đáng là vùng căn cứ địa cung cấp sức người sức của cho chiến trường Ninh Thuận. Thiếu giống thì huyện tổ chức xuống đồng bằng mua giống; thiếu nông cụ thì xuống tháo gỡ đượng rày xe lửa về rèn dao, rựa, ní, cuốc xẻng để sản xuất. Khi đã có giống và nông cụ sản xuất, đồng bào không quản ngày đêm, bám rẫy sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Tay cày tay súng”. Khi địch lên càn thì cầm vũ khí đánh giặc, khi địch rút thì tổ chức sản xuất; đánh giặc ban ngày thì tổ chức sản xuất ban đêm. Các tổ vần công như một đơn vị vững mạnh toàn diện cả về sản xuất chiến và chiến đấu. Nhưng nạn lạt muối rách vải mãi đeo đẳng đồng bào; để khắc phục khó khăn trên, đồng bào tổ chức các đoàn dân công xuống Phương Cựu hoặc ra Cà Ná lấy muối về núi; nhiều khi còn xuống biển múc nước về nấu thành muối. Những hạt muối thấm đẫm mồ hôi, thậm chí đổi bằng máu của đồng chí đồng bào mình. Nhưng không đáp ứng được nhu cầu nên nạn lạt muối vẫn tồn tại, đồng bào phải dùng tre tranh ớt trái thay muối. Thật cảm động khi những hạt muối trên núi rừng hiếm hoi như vậy, nhưng số muối còn dự trữ lại, đồng bào nhường lại cho cán bộ ăn để đủ sức đánh giặc. Những Ama, Awây dù vẫn lạt muối nhưng vẫn giữ “hũ muối Bác Hồ” dành cho cán bộ cách mạng sử dụng. Điều này đã nói lên tình cảm nhớ thương yêu kính Bác Hồ, tình nghĩa thủy chung son sắt với Đảng của đồng bào Bác Ái trong những ngày khó khăn gian khổ này.

Giai đoạn 1960-1975 là giai đoạn Bác Ái tăng cường xây dựng căn cứ địa vững mạnh, chống địch càn quét vào chiến khu, bảo toàn và xây dựng lực lượng, phát động phong trào vót chông, bắn máy bay địch, chi viện sức người, sức của cho chiến trường của tỉnh và là nơi trung chuyển đi các chiến trường trong khu 6. Điển hình trận đánh của anh hùng Pinăng Tắc bẻ gãy trận càn của địch trên đèo Gia Túc (Phước Bình) năm 1961 tiêu diệt gần 1 đại đội địch, trận đánh đã đi vào lịch sử quân sự của quân đội ta. 1969 quân dân Bác Ái đã bẻ gãy trận càn của địch, tiêu biểu là dân quân du kích Phước Trung đã bắn rơi 28 máy bay địch trong đó Chamaléa Châu bắn rơi 7 chiếc. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,quân dân Bác Ái đã góp công lớn trong chiên dịch làm đường mòn Hồ Chí Minh phục vụ cho việc vận chuyển lương thực, quân cụ, vũ khí về giải phóng  Phan Rang ngày 16/4/1975 và giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/1975.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, cùng với cả nước và quân, dân tỉnh Ninh Thuận, quân và dân chiến khu Bác Ái năm xưa đã viết nên những trang sử hào hùng, những bản “anh hùng ca Raglai” với tinh thần đấu tranh bất khuất, trung dũng, kiên cường chiến thắng kẻ thù xâm lược với nhiều sự kiện lịch sử vẻ vang đã trở thành những mốc son chói lọi như: phong trào đấu tranh chính trị và đồng khởi phá khu tập trung, lập ấp chiến lược của thực dân và đếù quốc; phong trào sáng tạo vũ khí thô sơ tự tạo để đánh giặc; phong trào dùng súng trường bắn máy bay Mỹ; phong trào dân công hỏa tuyến…. và các sự kiện lịch sử như: cuộc nổi dậy phá khu tập trung Bà Râu (ngày 7 tháng 2 năm 1959), là huyện đầu tiên ở cực Nam Trung bộ được giải phóng (ngày 30 tháng 8 năm 1960); cùng các trận đánh đã đi vào huyền thoại như trận “Bẫy đá Pi Năng Tắc”, trận bắn máy bay Mỹ bằng súng trường đầu tiên của dân quân du kích xã Phước Đại (ngày 27 tháng 3 năm 1967). 

Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Bác Aí đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, từng bước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Với tinh thần toàn đảng, toàn dân, toàn quân đánh giặc, đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, Bác Ái đã là một trong những huyện đầu tiên ở vùng cực Nam Trung bộ được giải phóng (30/8/1960) và đồng thời, Bác Ái cũng trở thành căn cứ địa vững chắc của cơ quan lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận trong suốt hai cuộc kháng chiến. Với ý chí “quyết đánh, quyết thắng” quân xâm lược, “một tấc không đi, một ly không rời”, quân và dân Bác Aí đã mưu trí, dũng cảm, sáng tạo phá tan bao cuộc hành quân càn quét, dồn dân lập ấp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giữ vững chiến khu, góp phần cùng quân và dân trong tỉnh chiến đấu anh dũng, giải phóng quê hương Ninh Thuận.

 Nhân dân các dân tộc Bác Ái có truyền thống đấu tranh cách mạng, tinh thần mưu trí dũng cảm, sáng tạo, đặc biệt là nghệ thuật chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, cùng với những tấm lòng nhân ái, đoàn kết, thương yêu đùm bọc, dám hy sinh mất mát, chịu đựng muôn vàn khó khăn gian khổ, một lòng, một dạ đi theo Đảng, theo Bác Hồ làm cách mạng, lập nên những chiến công xuất sắc của quân và dân Bác Ái trong suốt 30 chiến tranh giải phóng. Bác Ái - “căn cứ thép” đã được cán bộ, chiến sỹ và nhân dân vùng cực Nam Trung bộ nói chung và nhân dân trong tỉnh Ninh Thuận nói riêng, biết đến như một vùng đất thành đồng với những con người “như gang, như thép” và một lòng, một dạ theo Đảng, theo Bác Hồ trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. 

          Trong suốt hai cuộc kháng chiến, mỗi tên đất, tên làng ở Bác Ái đều ghi dấu những chiến công hiển hách, gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng. Núi rừng Bác Ái đã sinh ra những người con kiên trung, bất khuất, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Như anh hùng Pi năng Tắc, con chim đầu đàn của dân tộc Raglai, tên tuổi đã gắn liền với những trận đánh bằng bẫy đá; Anh hùng Pi năng Thạnh, Chamaléa Châu, chị Dú, chị Nía... và đồng bào, đồng chí trên quê hương Bác Ái quyết một lòng, một dạ đi theo Đảng, theo Bác Hồ làm cách mạng. Tên tuổi và những chiến công của họ là nỗi khiếp sợ đối với quân địch.

4. Bác Ái sau ngày đất nước thống nhất đến năm 2000.

Hoà trong không khí thắng lợi của quân dân cả nước, quân dân Bác Ái phấn khởi, tự hào, tích cực bắt tay xây dựng đời sống mới. Cũng như tình hình toàn miền Nam, quân dân Bác Ái bước vào xây dựng cuộc sống mới trên đống đổ nát của cuộc chiến tranh: Làng mạc bị phân tán, đất đai bị cày xới bởi bom đạn của quân thù, trường học, trạm y tế, đường sá giao thông hầu như còn tạm bợ; tình hình mù chữ, đói nghèo, dịch bệnh còn phổ biến trong nhân dân. Nền kinh tế nông nghiệp nương rẫy lạc hậu, mang tính tự cấp, tự túc. Thương mại dịch vụ chưa phát triển. Đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù đất nước đã được giải phóng nhưng trên địa bàn huyện vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Huyện được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2001 theo Nghị định số 65/2000/NĐ-CP ngày 06/11/2000 của Chính phủ. Toàn huyện hiện nay có 09 đơn vị hành chính cấp xã đều xã khu vực III- xã đặc biệt khó khăn với 31/38 thôn thuộc diện đặc biệt khó khăn theo Quyết định 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Dân số toàn huyện là 7.372 hộ/31.353 nhân khẩu, trong đó chủ yếu là người dân tộc thiểu số.

Bên cạnh những khó khăn đó thì huyện nhà vẫn có một số thuận lợi rất cơ bản: Huyện vốn là một cái nôi của cách mạng, được giải phóng từ rất sớm nên bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã phát huy vai trò lãnh đạo, vận động quần chúng nhân dân tham gia cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân giành thắng lợi. Quân dân có truyền thống đoàn kết, cần cù lao động, một lòng một dạ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Về điều kiện tự nhiên, huyện có nguồn tài nguyên rừng phong phú, đa dạng, thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển nền kinh tế nông- lâm, chăn thả gia súc, gia cầm. Đó là những điều kiện cơ bản để Đảng bộ huyện nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sau khi tái lập, Bác Ái có những thuận lợi rất cơ bản, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đảng bộ và Nhân dân Bác Ái có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, có niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Là huyện có tiềm năng về đất đai, giao thông thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Những thành tựu bước đầu đạt được trong sự nghiệp đổi mới: kinh tế của huyện có bước tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng; một số cơ quan doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn tạo điều kiện giải quyết việc làm cho một bộ phận dân cư địa phương. Tình hình chính trị, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Bộ máy lãnh đạo Đảng, chính quyền nhanh chóng được củng cố. Đây là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và Nhân dân tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới.

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Bác Ái còn có một số khó khăn: là huyện miền núi nghèo, ngân sách Nhà nước phải trợ cấp, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí chưa đồng đều, nhiều thế mạnh của địa phương chưa được khai thác.

Ngay sau khi tái lập huyện, Huyện ủy, HĐND và UBND huyện lâm thời đã xây dựng quy chế làm việc, nhanh chóng củng cố kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; chỉ đạo các phòng ban chức năng tiến hành nghiên cứu, phân tích, đưa ra các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2001 và những năm tiếp theo.

II. BÁC ÁI SAU 24 NĂM TÁI LẬP, XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP.

    Trải qua 24 năm xây dựng, phát triển và hội nhập, huyện Bác Ái đã đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, toàn diện và bước đầu giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới. Diện mạo và tiềm lực kinh tế của huyện có chuyển biến đáng kể, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên, góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

1.Thành tựu về kinh tế

Triển khai có hiệu quả công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu; gắn với ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng từ trồng lúa chuyển sang trồng những giống cây có khả năng chịu hạn, có giá trị kinh tế theo vụ mùa như bắp, đậu xanh, mì, cỏ chăn nuôi và cây lâu năm. Chăn nuôi tiếp tục có sự phát triển mạnh, tổng đàn gia súc ổn định với quy mô đến nay 92.500 con, đạt 108,5%, tăng 9,7% so với giai đoạn 2016-2020; việc tổ chức và đảm bảo nguồn thức ăn thô xanh được nhân dân quan tâm từ diện tích trồng cỏ và sử dụng các phụ phẩm ngành trồng trọt. Các cơ sở chăn nuôi tập trung (heo, gà công nghiệp) ổn định. Công tác tiêm phòng, phòng chống dịch và tiêu độc khử trùng trong chăn nuôi luôn được quan tâm, kiểm soát chặt chẽ. Nghiên cứu bảo tồn đàn heo bản địa theo hướng nuôi hữu cơ, xây dựng sản phẩm đặc thù của huyện. Đến nay có 38 trang trại và 12 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (quan tâm hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, công nhận thương hiệu, hỗ trợ lao động trẻ, chuỗi liên kết, tưới tiết kiệm…, với tổng kinh phí trên 3 tỷ đồng), nâng cao chất lượng, giá trị cạnh tranh các sản phẩm; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học và tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; hạn chế tối đa tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng trái pháp luật, cháy rừng, nâng độ che phủ rừng tăng lên 59,8%. Chủ động nắm tình hình và triển khai kế hoạch, phương án ứng phó thiên tai, hạn chế thiệt hại về người và tài sản của nhân dân. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện một số Dự án thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia trên địa bàn huyện. Tập trung phối hợp với các xã, các đơn vị có liên quan rà soát đối tượng, nội dung và chuẩn bị mô hình, dự án thuộc chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chính sách giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới.

Tiếp tục duy trì, tạo điều kiện phát triển một số sản phẩm truyền thống như: đan lát, đàn Chapi, rượu cần… tại các xã trên địa bàn huyện. Hệ thống lưới điện tiếp tục được đầu tư, bảo đảm cung cấp điện phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân.

Thực hiện công tác quản lý thu, chi ngân sách theo đúng quy định; thực hiện nghiêm túc công khai dự toán ngân sách nhà nước và công tác quyết toán ngân sách Nhà nước huyện hàng năm theo quy định. Triển khai các giải pháp tăng thu ngân sách trên địa bàn, nguồn thu hàng năm đạt và vượt kế hoạch giao, thu ngân sách trên địa bàn huyện bình quân đạt được giai đoạn 2021-2023 là 18,4 tỷ đồng, đạt 73,5%, tăng 6% so với giai đoạn trước; chi ngân sách cơ bản đáp ứng nhu cầu hoạt động thường xuyên của hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở; tổng chi ngân sách giai đoạn 2021-2023 đạt 1.289,1 tỷ đồng, bình quân hàng năm là 429,7 tỷ đồng.

2. Thành tựu về Văn hóa- xã hội

Sau 24 năm tái lập huyện, ngành GD&ĐT Bác Ái đã có nhiều bước tiến vững chắc. Chất lượng giáo dục toàn diện từng bước được nâng cao. Trường lớp ngày càng khang trang, hiện đại. Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới trường, lớp học và đội ngũ giáo viên trên địa bàn huyện, nhằm tinh giảm bộ máy và thực hiện kế hoạch thu hồi biên chế sự nghiệp giai đoạn 2015 – 2030 trên địa bàn tỉnh. Công tác giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện ở các bậc học; 9/9 xã đều có các cấp học từ mẫu giáo đến trung học cơ sở và trung tâm học tập cộng đồng (riêng địa bàn xã Phước Đại có Trường PTDT nội trú và Trường PTTH cấp II, III); hệ thống trường lớp, trang thiết bị được đầu tư xây dựng theo hướng đạt chuẩn, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đảm bảo về số lượng, trình độ đạt chuẩn cơ bản đáp ứng yêu cầu dạy và học. Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch năm học linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông mới và thực nghiệm dạy học tiếng Raglai; tiếp tục duy trì 9/9 xã được công nhận đạt chuẩn phổ cấp giáo dục, huyện đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1; xây dựng 12 trường học đạt chuẩn quốc gia cuối năm 2023 có 15 trường, đạt 100%. Kịp thời  thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, giáo viên, học sinh đúng theo quy định; công tác truyền thông, giáo dục y tế về trường học

Công tác tuyên truyền, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày kỷ niệm, các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị hàng năm trên địa bàn huyện. xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa của đồng bào Raglai gắn với phát triển du lịch cộng đồng; xây dựng thôn văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa hàng năm, duy trì 35/38 thôn giữ chuẩn danh hiệu thôn văn hóa đạt 102,3%.

 Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước, công tác Đảng, quan tâm đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyển đổi số, họp trực tuyến; tiếp tục triển khai thực hiện xây dựng điểm sáng văn hóa cơ sở gắn với phát triển du lịch. Triển khai kịp thời, đầy đủ các chính sách an sinh xã hội, các chế độ, chính sách cho 100% các đối tượng là người có công, bảo trợ xã hội; hỗ trợ kịp thời người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Trong giai đoạn 2020-2023, đã giải quyết việc làm cho 2.252 lao động; đào tạo nghề cho 897 lao động nông thôn. Thực hiện phòng chống tệ nạn xã hội; công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và kế hoạch bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ. Triển khai thực hiện Chiến lược công tác dân tộc lồng ghép với kế hoạch đột phá thực hiện giảm tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn huyện, chú trọng duy trì hoạt động, theo dõi, xử lý kịp thời các vấn đề, trường hợp liên quan đến tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trên địa bàn huyện.

    3. Thành tựu về quốc phòng - an ninh

    24 năm qua, quốc phòng - an ninh của huyện luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.Tiềm lực quốc phòng - an ninh và thế trận quốc phòng toàn dân được tăng cường. Quan tâm làm tốt chính sách hậu phương quân đội; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Tỷ lệ thanh niên nhập ngũ hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu, trong đó chất lượng,  tỷ lệ đảng viên, đoàn viên ngày càng tăng. Tổ chức tốt các đợt Diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện và tham gia diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh đảm bảo yêu cầu “Hiệu quả, bí mật, an toàn, tiết kiệm”; vận hành tốt cơ chế: “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự, công an là trung tâm cùng các ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu theo chức năng và tổ chức thực hiện”. Thông qua cuộc diễn tập, trình độ nhận thức và hành động của các lực lượng tham gia diễn tập được nâng lên một cách rõ rệt, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Thường xuyên quan tâm, làm tốt công tác tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong huyện nâng cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

    Hàng năm xây dựng kế hoạch tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự đảm bảo an toàn các hoạt động lễ hội và các sự kiện chính trị; chú trọng công tác phòng, chống trộm cắp tài sản; khai thác lâm sản trái phép, phòng chống các tai, tệ nạn xã hội; giữ vững an ninh nông thôn. Thực hiện đồng bộ các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tai nạn giao thông. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm an toàn giao thông, không để xảy ra trọng án và các vụ việc phức tạp.

    Công tác tiếp dân có nhiều đổi mới, việc giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo của công dân được chú trọng. Tích cực tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc các vi phạm trong hoạt động tố tụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức và công dân.

    4. Thành tựu về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị

    Trong những năm qua, Huyện ủy luôn quan tâm, chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Thường xuyên củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp ủy, tổ chức Đảng. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ luôn được giữ vững. Những thành tựu to lớn của quá trình 24 năm tái lập, xây dựng, phát triển và hội nhập đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, năng động, sáng tạo của Đảng bộ huyện là nhân tố quyết định sự thắng lợi và phát triển của huyện, biểu hiện rõ nét bằng những chủ trương, chính sách của Đảng bộ huyện đều thể hiện rõ “ý Đảng - lòng dân”; quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc học tập, quán triệt Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng đến toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tuyên truyền sâu rộng trong Nhân dân.

    Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ huyện được quan tâm, chú trọng đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cán bộ được điều động, luân chuyển, cán bộ trẻ được bổ nhiệm bảo đảm đúng chuẩn theo quy định, đã phát huy tốt năng lực, sở trường và bản lĩnh trong công tác, có uy tín với Nhân dân. Hằng năm huyện cử trên 100 lượt cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Công tác bồi dưỡng phát triển Đảng viên được quan tâm, đội ngũ đảng viên ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng tính đến nay toàn huyện có 40 TCCSĐ trực thuộc và 94 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở; hầu hết cán bộ huyện và xã đều đươc chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị.

    Chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Tiếp tục đổi mới nội dung, nâng cao tính chiến đấu, tính lãnh đạo và tính giáo dục trong sinh hoạt chi bộ. Làm tốt công tác tạo nguồn và kết nạp đảng viên mới (nhất là trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân). Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, gắn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI, XII, XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, những việc cấp bách, bức xúc của Nhân dân và doanh nghiệp.

    Việc quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được Ban Thường vụ Huyện ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, công tác xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả với thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương đơn vị và các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội phát động. Từ đó có những tác động sâu sắc đến nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp. Đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ từ trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; tạo động lực mạnh mẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.

    Trong 24 năm qua, Đảng bộ huyện Bác Ái tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng và Uỷ ban kiểm tra các cấp. Chú trọng kiểm tra đảng viên, cấp uỷ viên cùng cấp và tổ chức Đảng khi có dấu hiệu vi phạm. Giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo đảng viên và tổ chức Đảng thuộc thẩm quyền; chú ý bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực cho cán bộ làm công tác kiểm tra và hướng dẫn tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng theo quy định.

    Khối đại đoàn kết toàn dân luôn được giữ vững. Trong huyện đã xuất hiện nhiều cách làm hay, mô hình mới, nhiều điển hình “Dân vận khéo”, có sức lan tỏa, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng phát triển cả về tổ chức cơ sở hội và hội viên, hoạt động khá đồng đều, tích cực hưởng ứng, đẩy mạnh các phong trào thi đua, các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; “Ngày vì người nghèo”, “đoàn kết sáng tạo, xung kích tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau giảm nghèo và làm giàu chính đáng”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “cựu chiến binh gương mẫu”... Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể góp phần quan trọng đưa Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện vào cuộc sống. Tạo ra sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong huyện hăng hái thi đua, tích cực sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất và công tác, không ngừng vươn lên thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra.

Bác Ái vẫn còn đó những khó khăn thử thách, cần tới sự phấn đấu vượt bật hơn nữa của Đảng bộ và nhân dân huyện Bác Ái trong qúa trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập với sự phát triển chung của cả nước và của tỉnh. Nhưng với những kết quả và thành tích đạt được trong những năm qua đã chứng tỏ sự phấn đấu lớn lao và quyết tâm chính trị cao của Đảng bộ và nhân dân trong huyện. Với những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, là những điều kiện cần và đủ cho Bác Ái tự chủ, tự tin vững bước đi lên, bên cạnh sự ưu tiên hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trên các lĩnh vực sẽ tạo đà cho Bác Ái phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.

Kỷ niệm 74 năm Ngày thành lập, 64 năm Ngày giải phóng, 24 năm Ngày tái lập huyện, phấn khởi, tự hào trước những kết quả lớn đã đạt được trong thời gian qua và kinh nghiệm tích lũy được, phát huy truyền thống của một huyện anh hùng, có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Ban Chấp hành Đảng bộ, cùng với tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân, sự giúp đỡ có hiệu quả của Trung ương, của Tỉnh ủy – HĐND-UBND tỉnh và các sở, ban ngành, đoàn thể tỉnh, sự chung tay góp sức của con em quê hương; Đảng bộ và Nhân dân Bác Ái tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, năng động sáng tạo, ra sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIV Đảng bộ huyện đề ra, xây dựng quê hương Bác Ái ngày càng giàu mạnh, văn minh.

* Một số hình ảnh về kinh tế- văn hóa của huyện

 

                                                        Thu hoạch lúa tại xã Phước Chính

                                          Lễ hội văn hóa Raglai tổ chức tại huyện năm 2013

                                                                Đường vào trung tâm huyện

Tác giả: Lệ Thủy- BTG Huyện ủy



Thống kê truy cập
  • Đang online: 9
  • Hôm nay: 251
  • Trong tuần: 525
  • Tất cả: 502 141
Đăng nhập
 Cơ quan quản lý trang Web: Huyện ủy Bác Ái; Trưởng Ban biên tập: Nguyễn Văn Tuấn-UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Giám đốc Trung tâm chính trị huyện.
 Designed by VNPT.