Hiệu quả trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi tại huyện Bác Ái

        Qua hơn 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã mang lại những kết quả tích cực, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trên địa bàn huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận

         Bác Ái là một trong 74 nghèo huyện trong cả nước (theo Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ). Huyện có 09 xã/38 thôn. Dân số toàn huyện 8.407 hộ/34.998 nhân khẩu; trong đó hộ đồng bào dân tộc thiểu số là 6.885 hộ/30.237 khẩu, chiếm 81,89% dân số toàn huyện, chủ yếu là đồng bào dân tộc Raglai. Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện chiếm 20,74%; cận nghèo chiếm 8,66% dân số toàn huyện (số liệu điều tra cuối năm 2024). Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân năm 2024 7,71%; trong đó: Hộ nghèo DTTS chiếm 99,25% hộ nghèo toàn huyện. Tổng số người trong độ tuổi lao động là 18.198 lao động, chiếm 52% tổng số dân toàn huyện, chủ yếu làm sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Diện tích tự nhiên 102.729,48 ha, chiếm 30,57% diện tích toàn tỉnh, trong đó: đất lâm nghiệp 81.231,01 ha chiếm 80%, đất nông nghiệp 12.346,86 ha chiếm 12%.

         Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thông qua các chương trình, dự án, chính sách được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Đặc biệt, từ chương trình MTQG phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS, diện mạo nông thôn huyện Bác Ái đã có những thay đổi căn bản. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá; sản xuất ngày càng phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đúng hướng, nhân dân từng bước áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; xuất hiện nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả; ngành công nghiệp-xây dựng tăng trưởng cao, thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội luôn được quan tâm đầu tư, từng bước được cải thiện nhưng chưa thật đồng bộ, nhất là cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, giáo dục, y tế. Sự nghiệp giáo dục, y tế được chú trọng đầu tư phát triển; chất lượng giáo dục ngày càng nâng lên, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; đa dạng hóa các hoạt động văn hóa gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số, hướng phát triển du lịch được sự đồng tình và hưởng ứng cao từ nhân dân, có bước khởi đầu tốt.

         Tình hình thực hiện và giải ngân vốn:

Tổng nguồn vốn đã giao theo kế hoạch và giao bổ sung, tính đến ngày 24/11/2024 là: 333.851.513.960 đồng.

Cụ thể từng nguồn vốn, từng năm như sau:

Vốn đầu tư: Tổng nguồn vốn 185.325.000.000 đồng.

- Năm 2022: Kế hoạch giao 43.770 triệu đồng/15 công trình (trong đó khởi công mới 15 công trình), giải ngân đạt gần 100% KH (hủy dự toán 03 triệu đồng).

- Năm 2023: Kế hoạch giao 63.739 triệu đồng/18 công trình (trong đó khởi công mới 05 công trình; chuyển tiếp 13 công trình), giải ngân đạt 100% KH.

- Năm 2024 (tính đến 24/11/2024): Kế hoạch giao 77.816 triệu đồng/28 công trình (trong đó khởi công mới 10 công trình, thanh toán công trình hoàn thành 13 công trình; chuyển tiếp 5 công trình), giải ngân 58.320/77.816 triệu đồng, đạt 75% KH.

Vốn sự nghiệp: Tổng nguồn vốn sau khi điều chỉnh là 148.526.513.960 đồng (kinh phí năm 2022, 2023 và 2024 là 183.526.513.960 đồng - 035.000.000.000 đồng do điều chỉnh giảm)

- Năm 2022: Kế hoạch giao 22.540.770 triệu đồng), giải ngân 6.471 triệu đồng đạt 28,71% KH

- Năm 2023: Kế hoạch giao 63.739 triệu đồng, giải ngân 28.915 triệu đồng, đạt 50,12% KH

- Năm 2024: Kế hoạch giao và bổ sung trong năm 2024 là 97.246.743.960 đồng, tính đến ngày 24/11/2024, giải ngân 36.036 triệu đồng, đạt 37,05% KH. Trong đó:

+ Kế hoạch vốn sự nghiệp 27.329 triệu đồng. Đã giải ngân 15.453/27.329 triệu đồng, đạt 56,54% KH giao.

+ Vốn điều chỉnh Chương trình MTQG vùng giai đoạn 2021-2025: đã giao 69.917.743.960 đồng (vốn sự nghiệp). Đã giải ngân: 16.575/69.917 triệu đồng, đạt 23,7% KH.

Nguồn lực đầu tư của Chương trình là rất lớn, góp phần quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hạ tầng kinh tế- xã hội tiếp tục được đầu tư, nâng cấp theo hướng đồng bộ, đặc biệt là hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh; hỗ trợ người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, góp phần giảm nghèo bền vững.

         Kết quả thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu:

Công tác thông tin tuyên truyền đạt hiệu quả tích cực

         Về thông tin, tuyên truyền: việc triển khai thực hiện Chương trình được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú: hệ thống truyền thanh; các hội nghị ở xã, huyện, thôn; sinh hoạt pháp luật; giao ban đầu tuần; Panô; tuyên truyền lưu động, các lớp tập huấn do tỉnh, huyện mở hằng năm. Huyện ủy mở 01 lớp với 90 là cán bộ chủ chút, đảng viên cấp huyện, cấp xã để quán triệt, triển khai các văn bản của Trung ương, Tỉnh và địa phương liên quan các chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 triển khai trên địa bàn huyện. UBND huyện mở 98 lớp với 4.055 lượt người tham gia; Tổ chức mở 64 lớp tuyên truyền cho 19 câu lạc bộ phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại các xã, các đơn vị trường học với 2.560 lượt người tham gia; xây dựng 21 cái pano tuyên truyên truyền tại các xã và, trường học; phối hợp với Ban Dân tộc Tỉnh mở 20 lớp với 800 lượt người tham gia. Mặt trận, HPN, HND và các đoàn thể huyện tổ chức nhiều đợt tập huấn, tuyên truyền đến các đoàn viên, hội viên về các nội dung theo hướng dẫn nhiệm vụ của ngành mình, phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Qua các đợt học tập, tuyên truyền, quán triệt, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và nhân dân trong toàn huyện đã nâng cao nhận thức, hiểu được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chương trình; tạo sự thống nhất cao trong hành động, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của người dân trong việc thực hiện chương trình, góp phần quan trọng, thiết thực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.

Nhiều mô hình sinh kế phát triển bền vững

         Về kinh tế: Đã thành lập 17 HTX; có 39 tổ hợp tác (THT) (366 thành viên) vẫn đang được duy trì hoạt động; Thu nhập bình quân đầu người khoảng 26,7/30 triệu đồng đạt 89 KH (theo KH đến 2025 thu nhập 30 triệu đồng); giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân hằng năm 7,71/4%, đạt 192% KH; Chưa có xã đạt chuẩn nông thôn mới; 9/9 xã dưới 15 tiêu chí theo Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Huyện chưa có thôn được công nhận đạt chuẩn thôn nông thôn mới (0/38 thôn) đạt 0% KH; có 03/38 thôn thoát khỏi thôn đặc biệt khó khăn, đạt 15,78% KH (KH giảm 19/38 thôn đặc biệt khó khăn).

         Về Xã hội:

+ Hạ tầng thiết yếu: 100% xã, thôn có các tuyến đường giao thông nông thôn được cứng hóa, đảm bảo đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch, đồng thời xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, theo hướng hiện đại, tạo thành mạng lưới giao thông hợp lý, tính kết nối cao, tạo động lực lan tỏa để thúc đẩy các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế phát triển; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố.

+ Y tế, giáo dục, tiếp cận tuyền thông: 100% đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng hàng năm 1,5%, đạt 100% KH; tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt 99,7/98%, đạt 101,93% KH; học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường đạt 98,4/97% , đạt 101,44% KH; trung học cơ sở 91,8/95%, đạt 96,63% KH; trung học phổ thông 54,9/65%, đạt 84,46% KH; 100% đồng bào DTTS được xem truyền hình và nghe đài phát thanh.

+ Đào tạo nghề, giải quyết việc làm: Có 52% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc thiểu số (NQ đến năm 2025 có 50% LĐ); giải quyết việc làm trên 1.988 lao động (bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn 600 lao động);  trong giai đoạn tư 2021 đến nay, toàn huyện30 lao động tham gia xuất khẩu lao động.

Bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc

+ Bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc; 100% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% thôn có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ hoặc đội văn nghệ thôn) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng.

         Về ổn định dân cư: trên địa bàn huyện Bác Ái không có hộ dân di cư không theo quy hoạch; cư trú phân tán, rải rác khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở.

         Về Môi trường:  Hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp đạt 99,7%; tỷ lệ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 94/99%, đạt 94,94% KH; tỷ lệ che phủ rừng đạt 58,83%.

         Tác động và hiệu quả đầu tư của Chương trình:

         - Xuất phát điểm là huyện nghèo, miền núi, đồng bào DTTS chiếm trên 84%, thu nhập chính của người dân từ sản xuất chủ yếu là nông nghiệp; tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ còn mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống còn thiếu và yếu. Sau 03 năm triển khai thực hiện, Chương trình đã hỗ trợ: Nhà ở cho 128 căn nhà cho hộ nghèo trên 9 xã, nước sinh hoạt phân tán 234 hộ; chuyển đổi nghèo cho 500 hộ nghèo thiếu đất sản xuất; đầu tư 06 công trình nước sinh hoạt tập trung giai đoạn I  tại 06 xã với kinh phí hơn 16 tỷ đồng (xã Phước Trung, Phước Chính, Phước Thắng, Phước Tiến, Phước Tân, Phước Bình) và tiếp tục triển khai giai đoạn II tại 03 xã còn lại (xã Phước Hòa, Phước Thành và Phước Đại) vơi tổng kinh phí 21 tỷ đồng cả 02 giai đoạn; hỗ trợ 49 dự án mô hình sản xuất cộng đồng trên 09 xã/701 đối tượng hộ nghèo, cận nghèo. Đầu tư 51 công trình, dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống. Đầu tư 03 công trình nhà văn hóa; Lắp đặt 05 điểm Wifi công cộng tại Nhà Văn hóa -Thể thao các thôn, Lắp đặt thiết bị Wifi công cộng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân trong các hoạt động hằng ngày… Ngoài ra, tổ chức nhiều lớp tập huấn, đào tạo nghề, tuyên truyền giáo dục pháp luật, lắp đặt Pa nô áp phích …

         - Mặc dù là chương trình mới ra đời, tuy nhiên  cùng với chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đã giúp cho bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện đang từng bước phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, không còn hộ thiếu đói; thu nhập bình quân đầu người được cải thiện; tỷ lệ lao động qua đào tạo, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động năm sau đều tăng hơn so với năm trước, các công trình hạ tầng cơ sở được đầu tư khá đồng bộ tại các xã.

         - Có 100% xã có trường Tiểu học và trung học cơ sở; 100% xã đều có Trạm y tế đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho Nhân dân; 100% thôn, xã được phủ điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ dân DTTS sử dụng điện đạt 96,6%, nước hợp vệ sinh đạt trên 90%; các công trình thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư, góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng nâng lên, công tác khám chữa bệnh cho nhân dân từng bước đi vào chiều sâu, công tác an ninh, quốc phòng được giữ vững.

         - Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được quan tâm nhằm đưa chủ trương, chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân, nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của tầng lớp nhân dân, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, tạo tiền đề vững chắc cho việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.

         - Sự tham gia của đối tượng: Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo tham gia họp tại thôn, lấy ý kiến về nội dung thực hiện chương trình, dự án, khi tham gia dự án đối tượng phải có cam kết thực hiện các nội dung có liên quan, đối ứng một phần kinh phí thực hiện, lựa chọn con giống, cây giống, vật tư cơ bản phù hợp với điều kiện sản xuất của đối tượng tham gia dự án. Các đối tượng tham gia hưởng ứng tích cực, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thực hiện dự án. Mức độ hưởng lợi của đối tượng được tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước, được tập huấn, chuyển giao kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, được hỗ trợ cây giống, con giống, vật tư liên quan và nhiều hộ đã thoát nghèo bền vững.

         - Các dự án, mô hình triển khai đã thực hiện đúng đối tượng. Tuy nhiên, do các đối tượng thụ hưởng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, họ còn nhiều hạn chế về nhận thức, kỹ năng trồng trọt, chăn nuôi còn hạn chế, nên các dự án triển khai chưa thật sự mang lại hiệu quả cho người dân.  Các chính sách về giáo dục được lồng ghép đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững vùng dân tộc, miền núi trên địa bàn huyện, giảm thiểu gánh nặng về tài chính cho gia đình học sinh. Chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ở xa được đến trường học có nơi ăn, ở thuận lợi hơn, cơ sở vật chất khang trang, đội ngũ giáo viên yên tâm công tác, nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

         - Các cấp Ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Các giải pháp tăng cường sự tham gia của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đã được xây dựng theo lộ trình cụ thể và đẩy mạnh thực hiện, qua đó vai trò của phụ nữ ngày càng được khẳng định và đánh giá cao trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Dự án 8 giao cho Hội liên hiệp phụ nữ huyện chủ trì tổ chức thực hiện, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện xuyên xuốt luôn có sự tham gia của chi em phụ nữ từ việc lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện.

 

Tác giả: Pi Năng Chấn - Phòng Dân tộc huyện



Thống kê truy cập
  • Đang online: 13
  • Hôm nay: 151
  • Trong tuần: 425
  • Tất cả: 502 041
Đăng nhập
 Cơ quan quản lý trang Web: Huyện ủy Bác Ái; Trưởng Ban biên tập: Nguyễn Văn Tuấn-UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Giám đốc Trung tâm chính trị huyện.
 Designed by VNPT.