Bác Ái là một trong 74 nghèo huyện trong cả nước (theo Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ).
Huyện có 09 xã/38 thôn. Dân số
toàn huyện 8.407 hộ/34.998 nhân khẩu; trong đó hộ đồng bào dân tộc
thiểu số là 6.885 hộ/30.237 khẩu, chiếm 81,89% dân số toàn huyện, chủ yếu là đồng bào dân tộc Raglai. Tỷ lệ
hộ nghèo toàn huyện chiếm 20,74%; cận nghèo chiếm 8,66% dân số toàn huyện (số
liệu điều tra cuối năm 2024). Tỷ lệ
hộ nghèo giảm bình quân năm 2024 là 7,71%; trong
đó: Hộ nghèo DTTS chiếm 99,25% hộ nghèo toàn huyện. Tổng số người trong độ tuổi lao động là 18.198
lao động, chiếm 52% tổng số dân toàn huyện, chủ yếu làm sản xuất nông nghiệp và
chăn nuôi. Diện tích tự nhiên
102.729,48 ha, chiếm 30,57% diện tích toàn tỉnh, trong đó: đất lâm nghiệp
81.231,01 ha chiếm 80%, đất nông nghiệp 12.346,86 ha chiếm 12%.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thông qua các
chương trình, dự án, chính sách được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Đặc biệt, từ
chương trình MTQG phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS, diện mạo nông thôn huyện
Bác Ái đã có những thay đổi căn bản. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá; sản
xuất ngày càng phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đúng hướng,
nhân dân từng bước áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tăng năng suất, chất
lượng cây trồng, vật nuôi; xuất hiện nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả; ngành
công nghiệp-xây dựng tăng trưởng cao, thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều đạt
và vượt kế hoạch. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội luôn được quan tâm đầu tư, từng
bước được cải thiện nhưng chưa thật đồng bộ, nhất là cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất, giáo dục, y tế. Sự nghiệp giáo dục, y tế được chú trọng đầu tư phát triển;
chất lượng giáo dục ngày càng nâng lên, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có
nhiều tiến bộ; đa dạng hóa các hoạt động văn hóa gắn với bảo tồn các giá trị
văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số, hướng phát triển du lịch được sự
đồng tình và hưởng ứng cao từ nhân dân, có bước khởi đầu tốt.
Tình hình thực hiện và giải ngân vốn:
Tổng nguồn vốn đã giao theo kế hoạch
và giao bổ sung, tính đến ngày 24/11/2024 là: 333.851.513.960 đồng.
Cụ thể từng nguồn vốn, từng năm
như sau:
Vốn đầu tư: Tổng nguồn vốn 185.325.000.000 đồng.
- Năm 2022: Kế hoạch giao 43.770
triệu đồng/15 công trình (trong đó khởi công mới 15 công trình), giải ngân đạt
gần 100% KH (hủy dự toán 03 triệu đồng).
- Năm 2023: Kế hoạch giao 63.739
triệu đồng/18 công trình (trong đó khởi công mới 05 công trình; chuyển tiếp 13
công trình), giải ngân đạt 100% KH.
- Năm 2024 (tính đến 24/11/2024):
Kế hoạch giao 77.816 triệu đồng/28 công trình (trong đó khởi công mới 10 công
trình, thanh toán công trình hoàn thành 13 công trình; chuyển tiếp 5 công
trình), giải ngân 58.320/77.816 triệu đồng, đạt 75% KH.
Vốn sự nghiệp: Tổng nguồn vốn sau khi điều chỉnh là 148.526.513.960
đồng (kinh phí năm 2022, 2023 và 2024 là 183.526.513.960 đồng - 035.000.000.000
đồng do điều chỉnh giảm)
- Năm 2022: Kế hoạch giao
22.540.770 triệu đồng), giải ngân 6.471 triệu đồng đạt 28,71% KH
- Năm 2023: Kế hoạch giao 63.739
triệu đồng, giải ngân 28.915 triệu đồng, đạt 50,12% KH
- Năm 2024: Kế hoạch giao và bổ
sung trong năm 2024 là 97.246.743.960 đồng, tính đến ngày 24/11/2024, giải ngân
36.036 triệu đồng, đạt 37,05% KH. Trong đó:
+ Kế hoạch vốn sự nghiệp 27.329
triệu đồng. Đã giải ngân 15.453/27.329 triệu đồng, đạt 56,54% KH giao.
+ Vốn điều chỉnh Chương trình
MTQG vùng giai đoạn 2021-2025: đã giao 69.917.743.960 đồng (vốn sự nghiệp). Đã
giải ngân: 16.575/69.917 triệu đồng, đạt 23,7% KH.
Nguồn lực đầu tư của Chương trình
là rất lớn, góp phần quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc của
nhân dân vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hạ tầng kinh tế- xã hội
tiếp tục được đầu tư, nâng cấp theo hướng đồng bộ, đặc biệt là hạ tầng thiết yếu
phục vụ sản xuất, dân sinh; hỗ trợ người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập, góp phần giảm nghèo bền vững.
Kết quả thực hiện các mục tiêu
và chỉ tiêu:




Công tác thông tin tuyên truyền đạt hiệu quả tích cực
Về thông tin, tuyên truyền: việc triển khai thực hiện Chương
trình được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú: hệ thống truyền
thanh; các hội nghị ở xã, huyện, thôn; sinh hoạt pháp luật; giao ban đầu tuần;
Panô; tuyên truyền lưu động, các lớp tập huấn do tỉnh, huyện mở hằng năm. Huyện
ủy mở 01 lớp với 90 là cán bộ chủ chút, đảng viên cấp huyện, cấp xã để quán triệt,
triển khai các văn bản của Trung ương, Tỉnh và địa phương liên quan các chương
trình MTQG giai đoạn 2021-2025 triển khai trên địa bàn huyện. UBND huyện mở 98 lớp với 4.055 lượt người tham gia; Tổ chức mở 64 lớp tuyên truyền cho 19 câu
lạc bộ phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại các xã, các đơn vị trường học với 2.560 lượt người tham gia; xây dựng 21 cái pano
tuyên truyên truyền tại các xã và, trường học; phối hợp với Ban Dân tộc Tỉnh mở
20 lớp với 800 lượt người tham gia. Mặt trận, HPN, HND và các đoàn thể huyện tổ chức nhiều đợt tập huấn,
tuyên truyền đến các đoàn viên, hội viên về các nội dung theo hướng dẫn nhiệm vụ
của ngành mình, phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Qua các đợt học
tập, tuyên truyền, quán triệt, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng
vũ trang và nhân dân trong toàn huyện đã nâng cao nhận thức, hiểu được mục
đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chương trình; tạo sự thống nhất cao trong
hành động, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của người dân trong việc
thực hiện chương trình, góp phần quan trọng, thiết thực trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện.




Nhiều mô hình sinh kế phát triển bền vững
Về
kinh tế: Đã thành lập 17 HTX; có 39 tổ hợp tác (THT) (366 thành viên) vẫn đang được duy trì hoạt động; Thu nhập bình quân đầu người khoảng 26,7/30 triệu đồng đạt 89 KH (theo KH đến 2025 thu nhập
30 triệu đồng); giảm tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân hằng năm 7,71/4%, đạt 192% KH; Chưa có
xã đạt chuẩn nông thôn mới; 9/9 xã dưới 15 tiêu chí theo Bộ tiêu chí quốc gia
nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Huyện chưa có thôn được công nhận đạt chuẩn
thôn nông thôn mới (0/38 thôn) đạt 0% KH; có 03/38 thôn thoát khỏi thôn đặc biệt
khó khăn, đạt 15,78% KH (KH giảm 19/38
thôn đặc biệt khó khăn).
Về Xã hội:
+ Hạ tầng thiết yếu: 100%
xã, thôn có các tuyến đường giao thông nông thôn được cứng hóa, đảm bảo đạt
tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch, đồng thời xây dựng hệ thống giao
thông đồng bộ, theo hướng hiện đại, tạo thành mạng lưới giao thông hợp lý, tính
kết nối cao, tạo động lực lan tỏa để thúc đẩy các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế
phát triển; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố.
+ Y tế, giáo dục, tiếp cận
tuyền thông: 100% đồng
bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ,
sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi bị suy dinh dưỡng hàng năm 1,5%, đạt 100% KH; tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5
tuổi đến trường đạt 99,7/98%, đạt 101,93% KH; học sinh trong độ tuổi học tiểu học
đến trường đạt 98,4/97% , đạt 101,44% KH; trung học cơ sở 91,8/95%, đạt 96,63%
KH; trung học phổ thông 54,9/65%, đạt 84,46% KH; 100% đồng bào DTTS được xem
truyền hình và nghe đài phát thanh.
+ Đào tạo nghề, giải quyết
việc làm: Có 52% lao động
trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc
thiểu số (NQ đến năm 2025 có 50% LĐ); giải quyết việc làm trên 1.988
lao động (bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn 600 lao động); trong giai đoạn tư 2021 đến nay, toàn
huyện có 30 lao động tham gia xuất khẩu lao động.



Bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc
+ Bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của
đồng bào các dân tộc; 100% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% thôn có đội
văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ hoặc đội văn nghệ thôn) truyền thống hoạt động
thường xuyên, có chất lượng.
Về ổn định dân cư: trên địa bàn huyện Bác Ái không có hộ dân
di cư không theo quy hoạch; cư trú phân tán, rải rác khu vực xa xôi, hẻo lánh,
nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở.
Về Môi trường: Hộ
dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp đạt 99,7%; tỷ
lệ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 94/99%, đạt 94,94%
KH; tỷ lệ che phủ rừng đạt 58,83%.
Tác động và hiệu quả đầu tư của
Chương trình:
- Xuất phát điểm là huyện
nghèo, miền núi, đồng bào DTTS chiếm trên 84%, thu nhập chính của người dân từ
sản xuất chủ yếu là nông nghiệp; tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ còn
mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống còn
thiếu và yếu. Sau 03 năm triển khai thực hiện, Chương trình đã hỗ trợ: Nhà ở
cho 128 căn nhà cho hộ nghèo trên 9 xã, nước sinh hoạt phân tán 234 hộ; chuyển
đổi nghèo cho 500 hộ nghèo thiếu đất sản xuất; đầu tư 06 công trình nước sinh hoạt tập trung giai đoạn I
tại 06 xã với kinh phí hơn 16 tỷ đồng (xã Phước Trung, Phước Chính,
Phước Thắng, Phước Tiến, Phước Tân, Phước Bình) và tiếp tục triển khai giai
đoạn II tại 03 xã còn lại (xã Phước Hòa, Phước Thành và Phước Đại) vơi tổng
kinh phí 21 tỷ đồng cả 02 giai đoạn; hỗ trợ 49 dự án mô hình sản xuất cộng đồng
trên 09 xã/701 đối tượng hộ nghèo, cận nghèo. Đầu tư 51 công trình, dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất,
đời sống. Đầu tư 03 công trình
nhà văn hóa; Lắp đặt 05 điểm
Wifi công cộng tại Nhà Văn hóa -Thể thao các thôn, Lắp đặt thiết bị Wifi công cộng nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin của người dân trong các hoạt động hằng ngày… Ngoài ra, tổ chức
nhiều lớp tập huấn, đào tạo nghề, tuyên truyền giáo dục pháp luật, lắp đặt Pa
nô áp phích …
- Mặc dù là chương trình mới ra đời, tuy nhiên cùng với chương trình giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới đã giúp cho bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện đang từng bước phát triển;
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, không còn hộ
thiếu đói; thu nhập bình quân đầu người được cải thiện; tỷ lệ lao động qua đào
tạo, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động năm sau đều tăng hơn so với năm
trước, các công trình hạ tầng cơ sở được đầu tư khá đồng bộ tại các xã.
- Có 100% xã có trường Tiểu học và trung học cơ sở;
100% xã đều có Trạm y tế đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho Nhân dân; 100%
thôn, xã được phủ điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ dân DTTS sử dụng điện đạt 96,6%,
nước hợp vệ sinh đạt trên 90%; các công trình thiết chế văn hóa được quan tâm đầu
tư, góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và văn
hóa tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của
người dân tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng giáo dục và
đào tạo ngày càng nâng lên, công tác khám chữa bệnh cho nhân dân từng bước đi
vào chiều sâu, công tác an ninh, quốc phòng được giữ vững.
- Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được quan tâm nhằm
đưa chủ trương, chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân,
nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của tầng lớp nhân dân, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, tạo
tiền đề vững chắc cho việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
- Sự tham gia của đối tượng: Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo
tham gia họp tại thôn, lấy ý kiến về nội dung thực hiện chương trình, dự án,
khi tham gia dự án đối tượng phải có cam kết thực hiện các nội dung có liên
quan, đối ứng một phần kinh phí thực hiện, lựa chọn con giống, cây giống, vật
tư cơ bản phù hợp với điều kiện sản xuất của đối tượng tham gia dự án. Các đối
tượng tham gia hưởng ứng tích cực, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thực hiện dự án. Mức
độ hưởng lợi của đối tượng được tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước, được tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, được hỗ trợ cây giống, con
giống, vật tư liên quan và nhiều hộ đã thoát nghèo bền vững.
- Các dự án, mô hình triển khai đã thực hiện đúng đối tượng. Tuy nhiên, do
các đối tượng thụ hưởng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, họ còn
nhiều hạn chế về nhận thức, kỹ năng trồng trọt, chăn nuôi còn hạn chế, nên các
dự án triển khai chưa thật sự mang lại hiệu quả cho người dân. Các chính sách về giáo dục được lồng ghép đã góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững vùng dân
tộc, miền núi trên địa bàn huyện, giảm thiểu gánh nặng về tài chính cho gia
đình học sinh. Chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ở xa được đến
trường học có nơi ăn, ở thuận lợi hơn, cơ sở vật chất khang trang, đội ngũ giáo
viên yên tâm công tác, nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
- Các cấp Ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành quan
tâm thực hiện. Các giải pháp tăng cường sự tham gia của phụ nữ trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đã được xây dựng theo lộ trình cụ thể và đẩy
mạnh thực hiện, qua đó vai trò của phụ nữ ngày càng được khẳng định và đánh giá
cao trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Dự án 8 giao cho Hội liên hiệp phụ nữ huyện chủ trì tổ chức thực hiện,
trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện xuyên xuốt luôn có sự tham gia của
chi em phụ nữ từ việc lập kế
hoạch đến tổ chức thực hiện.