Đảng kiên cường lãnh đạo
dân tộc Việt Nam thực hiện khát vọng độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội
Gần một thế kỷ trước, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế
trầm trọng. Chủ nghĩa đế quốc gia tăng áp bức, bóc lột khiến cho đời sống nhân
dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Tuy nhiên,
liên tiếp các phong trào đấu tranh ở trong nước đều bị chính quyền thực dân,
phong kiến đàn áp dã man. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt
Nam, một nước thuộc địa phương Đông lạc hậu, giai cấp công nhân chưa đông; là
kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; gắn liền với tư tưởng và công lao to
lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đảng ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo
dài về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Từ đây, cách mạng
Việt Nam được đặt trong quỹ đạo cuộc cách mạng vô sản, thực hiện chân lý lớn
nhất của thời đại là Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hội
nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 (tranh của họa sĩ Phan Kế
An) _Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh
Để thực hiện mục tiêu sống còn là phải xóa bỏ chế độ áp bức, bóc
lột của thực dân, phong kiến, trở thành một quốc gia độc lập, tiến lên xây dựng
chế độ xã hội mới, ngay từ khi ra đời và liên tiếp trong 15 năm, Đảng đã phát
động và tổ chức các phong trào rộng lớn: Phong trào Cách mạng 1930 - 1931 mà
đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh; phong trào dân chủ 1936 - 1939 trên toàn cõi
Đông Dương; phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, đỉnh cao là cao trào
kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945
“long trời, lở đất”. Cho dù gặp phải vô vàn hiểm nguy, gian khổ, chịu rất nhiều
tổn thất, song với sứ mệnh cao cả trước Tổ quốc và nhân dân, Đảng luôn thể hiện
vai trò lãnh đạo không thể thay thế và bản lĩnh chính trị kiên cường, vì nền
độc lập, tự do của dân tộc. Với bản lĩnh, trí tuệ và sức chiến đấu vô song,
Đảng đã đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp lầm than, đưa nhân dân lên vị
trí làm chủ đất nước, tạo ra những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang
tính thời đại. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, chủ nghĩa Mác - Lê-nin được
vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và đồng thời
kiến tạo nền dân chủ mới, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
châu Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hiện thân của sức mạnh Việt Nam trong
thời đại mới mà cốt lõi là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sự tham gia
của tất cả giai tầng yêu nước. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đã “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đồng thời kết hợp với sức mạnh thời
đại, đón bắt được thời cơ lịch sử khi chủ nghĩa phát-xít sụp đổ. Cũng từ đây,
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Để bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất, xây dựng chế độ mới, trong
30 năm không ngừng nghỉ, Đảng đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua nhiều tình thế
hiểm nghèo, “nghìn cân treo sợi tóc”, đánh thắng các kẻ thù lớn mạnh trên thế
giới. Khi vừa giành được độc lập, Đảng lãnh đạo nhân dân vừa chống “giặc đói”,
“giặc dốt”, vừa chống “thù trong, giặc ngoài”. Khi cơ hội đàm phán hòa bình
không còn nữa thì chủ động tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, “Chín năm
làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”, kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đưa đến việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Đông Dương. Khi chủ nghĩa thực dân
mới can thiệp, đưa quân đội vào xâm lược hòng chia cắt đất nước ta, Đảng quyết
tâm lãnh đạo nhân dân cả nước bền bỉ kháng chiến, tiến hành chiến tranh cách
mạng, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, đi tới Đại
thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất non sông. Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một
sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(1).
Kỷ nguyên giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 -
1975) được tạo nên bởi chiến thắng vô cùng hiển hách của nhân dân ta trước chủ
nghĩa phát-xít, chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới. Mỗi khi cách
mạng đứng trước thách thức nghiêm trọng và tình thế hiểm nghèo, thậm chí chưa
có tiền lệ trong lịch sử, phải chịu tổn thất to lớn, thì khi đó sự kiên cường,
bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam đã được Đảng phát huy mạnh mẽ, dẫn dắt toàn dân
tộc luôn giữ vững tinh thần cách mạng tiến công bằng sức chiến đấu vô song. Cơ
đồ to lớn của đất nước được mở ra với nền độc lập, thống nhất được củng cố vững
chắc; chủ nghĩa xã hội bước đầu được xây dựng trong điều kiện chiến tranh và
làm nhiệm vụ hậu phương lớn vẫn đạt được những thành tựu to lớn, là tiền đề cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đảng lãnh đạo đất nước thực
hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới và hội nhập
Ngay sau khi đất nước vừa được thống nhất, cách mạng Việt Nam phải
đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức chưa từng có: Hậu quả chiến tranh rất
nặng nề, phải khắc phục lâu dài; chủ quyền biên giới quốc gia bị đe dọa nghiêm
trọng, phải kiên quyết bảo vệ, củng cố; các thế lực thù địch bao vây, cấm vận
mọi bề, phải kiên trì đấu tranh gỡ bỏ; tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội
trong điều hành kinh tế - xã hội, cộng với những hạn chế, khuyết điểm của nền
kinh tế bộc lộ ngày càng rõ, cần được đổi mới; khủng hoảng kinh tế - xã hội
xuất hiện và ngày càng trầm trọng, phải nỗ lực khắc phục, vượt qua. Đây cũng là
thời điểm tình hình thế giới diễn biến ngày càng bất lợi cho cách mạng Việt
Nam. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng
toàn diện. Một số đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ
trương tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa, cải tổ. Trước yêu cầu cấp
thiết “đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, đất nước và chế độ”,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, kiên trì
tổng kết thực tiễn, vững tin ở sức mạnh của nhân dân, quả cảm dứt bỏ tư duy và
cách làm không còn phù hợp, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào điều kiện cụ thể của đất nước, quyết tâm khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện, tìm con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững ổn
định và phát triển đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 hoạch định đường
lối đổi mới, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, niềm
tin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bị giảm sút nghiêm trọng. Với tầm cao
trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng và sự nhạy bén về thời cuộc, Đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn kiên định đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở
vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Quyết tâm của Đảng thể hiện tại Đại hội VII (năm 1991), khi khẳng định dứt
khoát: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc
thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn
của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng
ta”(2). Công cuộc đổi mới được tiếp tục triển khai với sự kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, Việt Nam đã thu được kết quả đáng khích lệ, tạo
nền tảng quan trọng để chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tổng Bí
thư Tô Lâm với nhân dân xã Nguyễn Văn Linh, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên _Ảnh:
TTXVN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, nền
kinh tế được nâng lên trình độ cao hơn, phát triển năng động. Việt Nam
đã vươn lên nhóm 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới, nhóm 20 nền kinh tế có kim
ngạch thương mại lớn nhất thế giới. Quy mô nền kinh tế đất nước đã tăng hàng
trăm lần so với năm đầu đổi mới. Không chỉ phá bỏ thế bị bao vây, cô lập, Việt
Nam tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, có quan hệ ngoại giao với 194 quốc
gia, có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, quan hệ Đối tác chiến lược và Đối
tác toàn diện với tất cả nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của ASEAN và hơn 70 tổ chức
khu vực và quốc tế, có quan hệ với 230 thị trường tại các châu lục, là mắt xích
quan trọng trong 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực gắn kết với
các nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã vươn lên trở thành
biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của nhà đầu tư và khách du
lịch, bạn bè quốc tế.
Mục tiêu của Đảng phấn đấu vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân đạt
những kết quả quan trọng. Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc; phát triển văn hóa - xã hội, con
người có nhiều tiến bộ; định hình ngày càng rõ nét hệ giá trị quốc gia, hệ giá
trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đất nước ta
được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một điểm sáng về xóa đói, giảm
nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường; giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý
hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào thành công
của quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc; vị thế, uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao.
Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Đảng
kiên định và không ngừng vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho phù hợp với thực tiễn phát
triển từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, Đảng dẫn dắt dân tộc ta vững vàng vượt qua
mọi khó khăn, thách thức, không ngừng đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển đất nước hùng
cường, phồn vinh, hạnh phúc. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất
nước qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới thực sự tạo nền tảng, tạo đà
cho những bước phát triển nhảy vọt cao hơn của đất nước.
Xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta không ngừng rèn
luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Trong
mọi hoàn cảnh, Đảng luôn vững tin vào sự đúng đắn, tính khoa học, tinh thần
bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin
tưởng vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta, nhân dân ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Dù trải qua nhiều bước thăng trầm, khó khăn,
thách thức, Đảng luôn vững tin ở sức mạnh của nhân dân, sẵn sàng đấu tranh gian
khổ vì quyền lợi của nhân dân và có phương cách tập hợp, phát huy sức mạnh của
nhân dân. Có được bản lĩnh vững vàng còn nhờ Đảng ta không ngừng rèn luyện ý
chí cách mạng, luôn củng cố và đổi mới tổ chức, tăng cường khối đoàn kết thống
nhất trong Đảng và của toàn dân tộc. Qua các chặng đường cách mạng, Đảng kịp thời
và nghiêm túc đúc kết kinh nghiệm đấu tranh, qua đó rèn luyện bản lĩnh và ý chí
cách mạng cho đảng viên và quần chúng, tạo sự chủ động trước các tình huống
mới, sẵn sàng đối mặt với thách thức mới. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng
còn biểu hiện và có nguyên nhân từ việc Đảng luôn quan tâm tự đổi mới và chỉnh
đốn, nghiêm túc nhìn nhận và kiên quyết đấu tranh với hạn chế trong việc hoạch
định và tổ chức thực hiện đường lối cách mạng; đấu tranh không khoan nhượng với
những biểu hiện tiêu cực trong Đảng, thanh lọc khỏi hàng ngũ của Đảng những
người không giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng và không còn nhiệt huyết đấu
tranh.
Đảng lãnh đạo đất nước vững
bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, sánh
vai với các cường quốc năm châu
Những thành tựu to lớn đã đạt được trong 95 năm qua bắt nguồn từ
con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn; từ bản lĩnh chính trị và sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng
Cộng sản Việt Nam - một Đảng luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục
tiêu phấn đấu, luôn trung thành tuyệt đối và vô hạn với lợi ích của dân tộc,
của nhân dân; từ sức mạnh to lớn của tinh thần yêu nước, của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; từ nỗ lực và quyết tâm, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng mãnh
liệt về độc lập, tự do, hạnh phúc của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam; từ
sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế, nhân dân thế giới đã dành cho
Việt Nam.
Thành quả cách mạng vĩ đại đã đạt được còn từ sự hy sinh của hàng
triệu anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam và nghĩa vụ quốc tế cao cả; đóng góp to lớn
của Nhân dân, những người đã trải bao gian lao trong lao động, sáng tạo xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, rất đáng trân trọng, tự hào.
Đây là nguồn động lực tinh thần to lớn, đồng thời cũng đòi hỏi chúng ta sống và
làm việc có trách nhiệm hơn; không được phép tự mãn với thành quả đạt được,
càng không được tự cho mình quyền thụ hưởng một cách vô trách nhiệm thành quả
từ sự gian lao, hy sinh của bao lớp cha anh đi trước. Chúng ta cần tiếp nối, kế
thừa, phát huy, tiếp tục lan tỏa giá trị truyền thống của dân tộc và cách mạng
trong bối cảnh mới.
Hiện nay, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại.
Môi trường an ninh quốc tế ngày càng căng thẳng, phức tạp; cuộc đấu tranh, cạnh
tranh quốc tế gay gắt; lực lượng cánh tả, lực lượng tiến bộ, phong trào xã hội
chủ nghĩa tiếp tục phát triển song còn gặp khó khăn; các thế lực thù địch, phản
động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn thâm
độc, tinh vi, nguy hiểm. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự hình thành
nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức, yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh tế từ
chiều rộng sang chiều sâu, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu
quả, có sức cạnh tranh cao… vừa tạo ra thời cơ, thuận lợi, vừa mang đến thách
thức to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng gần một thế kỷ qua của Đảng ta đã
chỉ ra rằng: Thời cơ không tự đến mà chủ yếu là do ta chuẩn bị sẵn sàng cho
thời cơ, nhạy bén đón bắt đúng thời cơ; vượt qua thách thức chính là thời cơ
lớn nhất. Bối cảnh thế giới đòi hỏi và tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp tục sự
nghiệp đổi mới với khát vọng lớn lao hơn, bước đi vững chắc hơn, tốc độ nhanh
hơn, quyết đoán đột phá mạnh mẽ hơn. Đồng thời, kỷ nguyên đổi mới, phát triển
và hội nhập đã nâng cao thực lực, vị thế quốc gia và tiếp thêm khát vọng, tạo
đà mạnh mẽ cho đất nước. Đây đang là thời điểm hội tụ được giá trị của dân tộc
và thời đại, của truyền thống và đương đại, của vật chất và tinh thần; ý Đảng
đang hòa quyện với lòng dân trong khát vọng phát triển đất nước hùng
cường. Khởi điểm của kỷ nguyên mới đã đến, chậm trễ là đánh mất cơ hội phát
triển. Hơn lúc nào hết, cần phát huy cao độ tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực,
tự cường, tự hào dân tộc”, lấy đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế
trong sáng làm động lực, huy động mạnh mẽ sức dân, gắn kết chặt chẽ ý Đảng với
lòng dân làm nền tảng, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát
triển giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu, không ngừng phấn đấu,
đóng góp nhiều hơn nữa vào duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và
trên thế giới.
Các đại
biểu là thanh niên tiêu biểu trên các lĩnh vực trong và ngoài nước thể hiện
quyết tâm tại phiên khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam lần thứ IX với khẩu hiệu hành động của đại hội là: "Thanh
niên Việt Nam yêu nước - khát vọng - đoàn kết - tiên phong - sáng tạo - tự tin
bước vào kỷ nguyên mới" _Nguồn: thanhnien.vn
Kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam
đang ra sức phấn đấu bứt tốc, sớm về đích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng, hướng đến kỷ niệm 80 năm giành độc lập, thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 50 năm
thống nhất đất nước; quyết tâm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đến năm
2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, nhân dân có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, được sống trong môi trường an ninh, an toàn, an tâm, không ai
bị bỏ lại phía sau. Trước các mốc son có tính bước ngoặt này, cán bộ, đảng viên
và nhân dân đang rất trông đợi, kỳ vọng lớn lao vào những quyết sách mới, mạnh
mẽ và sáng suốt, mang tính đột phá của Đảng.
Kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng gần một thế kỷ qua cũng đã chỉ rõ,
chính vào thời điểm then chốt này, hơn lúc nào hết Đảng phải củng cố bản lĩnh,
mài sắc trí tuệ, tăng cường sức chiến đấu để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng đặt ra. Chúng ta cần tập trung cao độ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; không ngừng rèn
luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của
Đảng; kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Đảng
lãnh đạo tổ chức thực hiện thật tốt những vấn đề đã và đang đặt ra, đồng thời
kiến tạo không gian phát triển mới bằng việc đúc kết và kế thừa tinh hoa truyền
thống, đón bắt và phát huy giá trị thời đại và vận hội mới mang tính thời đại;
phải xây dựng Đảng vững mạnh và Đảng phải trở thành nhà tổ chức vĩ đại của toàn
dân tộc; Đảng là đạo đức, là văn minh, là biểu tượng của trí tuệ và bản lĩnh
dân tộc, đi đầu, dẫn dắt toàn dân với tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, tiên phong đột phá.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, mỗi thắng lợi to lớn luôn
mở ra một thời kỳ phát triển mới với nhiều thuận lợi, cũng đồng thời đặt ra
trọng trách mới, cao hơn đối với toàn Đảng, toàn dân. Để tiếp tục tăng cường
bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên vững chắc trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi
Đảng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; dựa chắc vào sức mạnh của nhân dân,
phát huy dân chủ, quy tụ cao độ sức mạnh của nhân dân vì mục tiêu mang lại lợi
ích, hạnh phúc cho nhân dân; kết hợp và phát huy cao độ sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong kỷ nguyên mới; bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, chủ
quyền quốc gia trong mọi tình huống. Đồng thời, Đảng phải tăng cường bản lĩnh,
ý chí và tinh thần kiên quyết hành động của từng cán bộ, đảng viên ở mỗi vị trí
công tác của mình; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu niềm tin và khát vọng phát triển,
Kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng cũng là dịp để chúng ta nhìn lại
chặng đường gần một thế kỷ của cách mạng Việt Nam, nhìn lại mỗi kỷ nguyên rực
rỡ mở ra cho dân tộc Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Niềm tự hào về Đảng
quang vinh, dân tộc Việt Nam anh hùng, Bác Hồ vĩ đại luôn tiếp thêm cho mỗi cán
bộ, đảng viên chúng ta ý chí lớn lao, sự đồng tâm nhất trí cùng toàn Đảng, toàn
dân vững bước thành công trong kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, sánh
vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính
yêu - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh./.
GS, TS Tô Lâm
Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
---------------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 471
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 109