Một là, về vấn đề dân chủ. Chúng ta khẳng định dứt khoát không thể chấp nhận cái “dân chủ” mà các thế lực thù địch muốn áp đặt cho chúng ta. Bởi vì, dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các chế độ xã hội và thời đại khác nhau. Theo đó, dân chủ xuất hiện khi có Nhà nước và mỗi nền dân chủ gắn với một Nhà nước nhất định, được pháp luật của Nhà nước đó qui định. Dân chủ mà con người có được là quá trình phát triển, mà kết quả trực tiếp của nó chính là thông qua đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, để giải phóng con người.
Như vậy, chừng nào xã hội còn có giai cấp thì dân chủ trong xã hội đó mang tính giai cấp sâu sắc và trong khung khổ pháp luật của xã hội đó, không có thứ dân chủ phi giai cấp, mọi luận điệu phủ nhận vấn đề này đều là sự lừa phỉnh mà thôi. Mọi hoạt động trong xã hội, kể cả dân chủ, không thể tách rời khỏi mảnh đất hiện thực của xã hội đó, trái lại nó phụ thuộc chặt chẽ vào nền tảng kinh tế, văn hoá, xã hội và trình độ dân trí của xã hội đó. Về điều này, C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”.
Theo lịch sử phát triển của xã hội loài người thì rõ ràng, sự ra đời nhà nước tư sản đánh dấu một nấc thang phát triển về dân chủ so với dân chủ phong kiến, nhưng nền dân chủ đó cũng không vượt ra ngoài cái nền tảng kinh tế của xã hội đó. Nên toàn bộ thiết chế của nền dân chủ tư sản, từ việc tổ chức nhà nước đến các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đều chỉ nhằm mục đích cao nhất là bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản; toàn bộ bộ máy chính quyền đó đều hướng đến việc chống lại tư tưởng tự do, dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, với tính cách là một nấc thang phát triển cao hơn tư bản, dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa khác hẳn về chất so với dân chủ xã hội tư bản. Nền dân chủ đó, lấy tiêu chí cốt lõi để khẳng định bản chất nhà nước của mình đó là nhân dân là chủ và làm chủ. Theo đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên những nội dung cốt lõi là: nền dân chủ của nhân dân lao động, vì nhân dân lao động, thể hiện ở việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân lao động; thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do được bảo đảm về mặt pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; có nội dung toàn diện, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, vă hoá, xã hội, ý thức – tư tưởng, trong đó nổi bật là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào công việc quản lý nhà nước và xã hội thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Nhìn từ bản chất của hai nền dân chủ, rõ ràng dân chủ xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn, đem lại quyền lợi, lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động, nên sự lựa chọn của Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là điều không cần bình luận và bàn cãi.
Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Vì vậy, chúng ta phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật,… là quá trình hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hoàn toàn sai lầm khi cho rằng, phải có đa đảng mới có “dân chủ và phát triển”. Dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng mà nó hoàn toàn phụ thuộc và bản chất của chế độ xã hội; do đó, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và kém dân chủ. Thực tiễn hiện thực nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay cho thấy, đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển. Trong khi, nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân được bảo đảm, nhân dân cảm thấy hạnh phúc. Điều đó là bằng chứng hùng hồn, khẳng định đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển.
Hai là, về vấn đề nhân quyền. Thực chất vấn đề nhân quyền mà các thế lực thù địch đang không ngừng rêu rao, chống phá ta đó chính là phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Từ đó, đi đến phủ nhận nền tảng tư tưởng và vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động coi trọng dân chủ, nhân quyền, nhân đạo theo các giá trị của các nước tư bản phương Tây để áp đặt vào Việt Nam. Vì bản chất nhân đạo, nhân văn của nó được tự thể hiện rõ trong bản chất và chế độ xã hội, chứ không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của những phần tử chống đối.
Minh chứng to lớn mà bạn bè quốc tế đã thừa nhận đó chính là thành quả chúng ta đã đạt được sau 35 năm đổi mới đất nước. Diện mạo trên tất cả các lĩnh vực của chúng ta đã thay đổi và có sự phát triển mới, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Số liệu thống kê cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô và mở rộng tín dụng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ nét thể hiện qua tốc độ tăng năng suất lao động. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng bình quân từ 33,6% giai đoạn 2011-2015 lên khoảng 44,3% trong giai đoạn 2016-2020. Tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,3%, vượt mục tiêu chiến lược đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016-2020 đã tăng lên 5,8%/năm. Đặc biệt năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao kỷ lục trong 10 năm, đạt trên 7% nhưng tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 14% so với mức 17-18% của các năm trước đó. Những số liệu này cho thấy, nền kinh tế của chúng ta đang có sự chuyển dịch về mô hình tăng trưởng và sự thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị.
Những đổi thay của đất nước sau 45 năm thống nhất đất nước là không thể phủ nhận, điều này được bạn bè quốc tế và cả những người Mỹ đã từng là cựu binh tham chiến tại Việt Nam chứng kiến, khẳng định. Mặc dù đời sống của Nhân dân chưa thực sự khá giả, chúng ta còn nhiều điều phải làm, nhưng chúng ta có môi trường chính trị - xã hội ổn định, cuộc sống thật sự hoà bình, ấm no, tự do, trật tự, an toàn, an ninh tốt, nhân dân thật sự là chủ nhân của đất nước. Quyền con người được Hiến pháp, pháp luật thừa nhận, điều này phản ánh rõ tính chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn. Bản chất tốt đẹp của chế độ ta đã đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân ta, đây là điều hơn hẳn những người tự cho mình cái quyền đi phán xét, ban phát dân chủ, nhân quyền cho nước khác, nhưng ở ngay trên quê hương họ, tệ nạn xã hội còn nhiều, nạn khủng bố, giết người vô cớ liên tục xảy ra, biểu tình, bãi công là chuyện thường ngày, tình trạng phân biệt giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ… Phải chăng như thế là tự do, dân chủ, là có nhân quyền ?
Chăm lo cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành là thực hiện ước mong cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là mệnh lệnh của cuộc sống, cho dù các thế lực thù địch có bịa đặt, xuyên tạc thế nào đi chăng nữa. Đó là đạo lý, là lẽ sống giản dị, chân tình của người dân Việt Nam tin yêu đi theo Đảng. Xin ai đó đừng lên lớp về “dân chủ, nhân quyền” này nọ để mưu đồ áp đặt giá trị phương Tây vào Việt Nam, mà hãy đến thăm đất nước Việt Nam với những thành tựu to lớn sau 35 năm đổi mới.
Ba là, vần đề tự do ngôn luận, tự do tư tưởng. Quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của người dân đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ dân chủ của xã hội đó, không bao giờ tách rời xã hội. Do đó, không thể có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng ở một quốc gia mất dân chủ, hoặc bị bóc lột, bị thống trị bởi nước khác. Từ khi giành được độc lập dân tộc năm 1945 đến nay, Việt Nam đã không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quyền con người, quyền công dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng được bảo đảm bằng pháp luật, phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và thông lệ quốc tế.
Trong các bản Hiếp pháp của Việt Nam trước đây, đặc biệt là Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có những hiến định về tự do ngôn luận, tự do tư tưởng và khẳng định đây là một quyền cơ bản của con người, của mọi công dân. Điều 25 Hiếp pháp năm 2013, ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để bảo đảm cho quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi công dân được thực thi trong cuộc sống theo quy định của Hiến pháp, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Luật Báo chí năm 2016; Luật tiếp cận thông tin năm 2016…, hoàn toàn tương thích về mặt luật định đối với các văn kiện quốc tế về quyền con người, quyền tự do ngôn luận, báo chí. Trên thực tế, không chỉ ở Việt Nam mới có một số chế tài đối với hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để vi phạm pháp luật, mà ở Mỹ, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Xigapo… đều có luật và điều khoản luật xử lý nghiêm khắc hành vi này.
Khẳng định Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng bằng việc Đảng, Nhà nước và Nhân dân luôn quan tâm đến báo chí, nên báo chí cách mạng Việt Nam có sự phát triển vượt bậc về quy mô, loại hình, công nghệ, chất lượng nội dung, hình thức và hiệu quả thông tin. Hiện nay, Việt Nam đã có đầy đủ loại hình báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử). Các tờ báo ở Việt Nam đều bảo đảm tự do ngôn luận, đều được quyền thông tin; quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng luôn được thực hiện hiệu quả. Các cơ quan báo chí đã làm tốt việc truyền đạt các thông tin, mọi chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cũng như các mặt xã hội đến với Nhân dân. Đồng thời, thông qua báo chí, Nhân dân cũng có diễn đàn để trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình đối với Đảng, Nhà nước và phản biện, đề xuất những ý kiến tâm huyết với Đảng và Nhà nước.
Những năm qua báo chí thể hiện được quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của mình với phương châm “trung thực, tuân thủ pháp luật, vì nước, vì dân” và quy định về đạo đức nghề nghiệp; những người làm báo đã luôn theo sát đời sống của Nhân dân. Kịp thời cổ vũ công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc; mặt khác, báo chí cũng luôn tích cực đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực trong xã hội; đã góp tiếng nói quan trọng vào việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng như là cầu nối quan trọng với bạn bè quốc tế. Bức tranh hiện thực về việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng ở Việt Nam là thực tế khách quan không ai có thể phủ nhận được.
Bốn là, về vấn đề đàn áp mạng xã hội. Có phải ở Việt Nam mạng xã hội không được hoạt động tự do và bị đàn áp không, đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt nhằm kích động, chia rẽ trong xã hội, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp vào nước ta. Vì thực tế, ở Việt Nam mạng xã hội bắt đầu du nhập vào từ năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog). Đến nay, có khoảng hơn 300 trang mạng xã hội khác nhau đã đăng ký hoạt động và có khoảng trên 35 triệu tài khoản đang hoạt động. Trong đó facebook là mạng xã hội phổ biến nhất vì nhờ có thiết kế thuận lợi cho người sử dụng khi tạo lập tài khoản cá nhân, cũng như những tính năng trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân với những người cùng nhóm, cùng sở thích… nên đã thu hút được nhiều thành viên tham gia. Tiếp sau facebook là các trang MySpace và Twitter, các blog (nổi bật ở nội dung đăng tải, nhưng nội dung dài hơn và có độ chuyên sâu về một vấn đề cụ thể)…
Với cơ chế hoạt động của mạng xã hội có tính chất tương tác cao, “cư dân mạng” dễ dàng chia sẻ những thông tin cá nhân với nhau, nên đã thu hút số người tham gia ngày càng đông, trong đó có giới trẻ. Điều này đã tạo ra những mặt thuận lợi cho mọi thành viên khi tham gia mạng xã hội, đó là có thể chia sẻ cũng như tìm kiếm những thông tin cần thiết phục vụ nhu cầu hoạt động riêng của mỗi người. Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin chính thống, sai sự thật, xuyên tạc, cổ suý cho lối sống lệch chuẩn cũng được đưa lên mạng xã hội với các mục đích khác nhau. Do đó, mạng xã hội đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại tư tưởng làm nguy cơ gia tăng lộ lọt bí mật nhà nước và mạng xã hội tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hoá, nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, cùng với việc phát triển mạng xã hội, cần phải có sự quản lý để phát huy tốt nhất những mặt tích cực mà mạng xã hội mang lại.
Các thế lực thù địch với cách nhìn phiến diện cho rằng ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng xã hội không có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy nghĩ của mình… Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật, bởi vì Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do thông tin, tự do Internet. Thực tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu kỳ diệu trong phát triển kinh tế như ngày nay, một phần là nhờ chúng ta tận dụng tốt cơ hội từ Internet, chính điều kiện phát triển tự do về Internet và mạng xã hội đã góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước; điều này đã là “một phần tất yếu” của các tầng lớp xã hội.
Thông qua các trang mạng xã hội, người dân có thể bày tỏ thông tin và chính kiến của mình; không những thế còn có nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã sử dụng Internet, mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính và liên hệ trực tiếp với người dân… Những việc đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở Việt Nam đã chứng minh rằng ở Việt Nam không có chuyện đàn áp mạng xã hội, mà trái lại còn được Đảng, Nhà nước bảo đảm sự phát triển tự do. Thực hiện quyền tự do Internet, mạng xã hội luôn được đặt trong khung khổ pháp luật. Nhờ đó mới bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng mạng xã hội, Internet để vi phạm pháp luật Việt Nam. Theo đó, trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: ban hành các văn bản pháp luật, triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng có hoạt động lợi dụng Internet, mạng xã hội vi phạm pháp luật. Điều này là hoàn toàn phù hợp và không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện như vậy. Ngay ở Mỹ, quốc gia tự cho mình là “đất nước tự do”, Quốc hội nước này đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm xử lý, ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để khủng bố, kích động bạo lực hay vi phạm sở hữu trí tuệ… Do đó ở Việt Nam không hề có chuyện đàn áp mạng xã hội, hay tra trấn trái pháp luật bất kỳ bloger nào. Rõ ràng đằng sau những thông tin bịa đặt đó là âm mưu chính trị của các thế lực thù địch nhằm kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Nhận rõ các quan điểm sai trái cho rằng Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, đàn áp mạng xã hội và đưa ra các luận cứ khoa học để phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái đó là việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Đồng thời, qua đó cũng tự xem lại chính mình, xem lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước chỗ nào chưa thực hiện tốt, chỗ nào chưa phù hợp để từng bước hoàn thiện, nhằm thực sự đem lại quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho Nhân dân. Điều này, hoàn toàn đúng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “…Đảng cách mạng cần phê bình và tự phê bình cũng như người ta cần không khí”. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”. Cùng với hoạt động tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải không ngừng đổi mới công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới.
(*)– Một số Luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng.