Kỷ yếu Văn phòng Tỉnh ủy Ninh Thuận

 KỶ YẾU

VĂN PHÒNG TỈNH ỦY NINH THUẬN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH 

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

Nguyễn Đức Thanh

- Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII đơn vị Ninh Thuận

Cao Văn Hóa - Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng tỉnh ủy

BAN BIÊN TẬP

Cao Văn Hóa                  - Trưởng ban

Lâm Đông                      - Phó ban

Tạ Minh Thao                - Phó ban

Lê Văn Hải                    - Phó ban

Nguyễn Quốc An          - Thành viên

Đặng Văn Kiên             - Thành viên

Phạm Thị Thanh Lam   - Thành viên

Đinh Thị Như Hiếu       - Thành viên

Nguyễn Văn Duẩn         - Thành viên

Hồ Trọng Luật               - Thành viên

Phan Thị Quý                - Thành viên 

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)

“Công tác văn phòng có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cho cán bộ lãnh đạo nắm được tình hình. Cán bộ văn phòng nắm tình hình sai thì lãnh đạo sẽ giải quyết công việc không đúng...”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh  

 LỜI NÓI ĐẦU

       Ngay sau khi tỉnh Ninh Thuận được tái lập (tháng 4-1992), cùng với các cơ quan chức năng khác, Văn phòng tỉnh ủy đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 4 năm 1992- là cơ quan tham mưu tổng hợp, phục vụ trực tiếp, thường xuyên các hoạt động của cấp ủy tỉnh trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tham mưu để đề ra chủ trương, chính sách trên tất cả các lĩnh vực.

        Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, trong suốt chặng đường lịch sử đã qua, từ khi được thành lập tới nay, đội ngũ cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy thật vinh dự và tự hào đã góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. Là cơ quan giúp việc trực tiếp, gần gũi và cơ mật của cấp ủy tỉnh, trong bất cứ điều kiện và hoàn cảnh nào cũng không quản ngại gian khổ, hy sinh với tấm lòng kiên định trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, luôn thấm nhuần và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Công tác văn phòng có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cán bộ lãnh đạo nắm được tình hình. Cán bộ văn phòng nắm tình hình sai thì lãnh đạo sẽ giải quyết công việc không đúng...”.

       Quá trình xây dựng và trưởng thành của Văn phòng tỉnh ủy không chỉ là niềm tự hào của đội ngũ cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy hôm nay, mà còn là niềm tự hào chung của đội ngũ những người làm công tác văn phòng cấp ủy trong toàn tỉnh. Những bài học quý báu về bản lĩnh chính trị, tinh thần tận tụy, lòng quả cảm và sức sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh của lớp 6 lớp cán bộ, chiến sỹ Văn phòng cấp ủy tỉnh năm xưa vẫn còn nguyên giá trị đối với những người làm công tác Văn phòng cấp ủy hôm nay và mai sau.

        Để đáp ứng nguyện vọng của đông đảo cán bộ, công chức từng công tác, chiến đấu tại Văn phòng cấp ủy, góp phần giáo dục, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng cho cán bộ, công chức trong hệ thống Văn phòng cấp ủy. Được sự đồng ý của Thường trực tỉnh ủy, Đảng bộ Văn phòng chủ trương xuất bản cuốn Kỷ yếu: “Văn phòng Tỉnh ủy Ninh Thuận - Quá trình xây dựng và trưởng thành” để cùng bạn đọc hiểu thêm và chia sẻ với công tác Văn phòng cấp uỷ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Tuy nhiên, cũng khó có thể ghi lại hết được những chiến công, những cống hiến, hy sinh, những kỷ niệm đẹp, những dấu ấn khó quên của những người làm công tác Văn phòng. Ban biên tập đã cố gắng sưu tầm, thu thập tài liệu, sự kiện, hồi ký, ghi chép của những cán bộ, công chức từng trực tiếp, gián tiếp làm công tác Văn phòng để trình bày, biên tập cuốn Kỷ yếu này nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót, mong bạn đọc góp ý.

       Nhân dịp kỷ niệm 22 năm- Ngày tái lập tỉnh (01-04-2002 - 01-04-2014) và 84 năm- Ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy (18-10-1930 - 18-10-2014), Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

Phan Rang-Tháp Chàm, tháng 10 năm 2014

BAN BIÊN TẬP                  

 PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TRUNG THÀNH, TẬN TỤY, ĐOÀN KẾT, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO; TIẾP TỤC XÂY DỰNG VĂN PHÒNG TỈNH UỶ NINH THUẬN NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH

     Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã vững lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập, tự do cho dân tộc, Bắc-Nam sum họp một nhà, quân dân ta cùng ca vang bài ca toàn thắng.

     Giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã và đang lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với nhiều cơ hội thuận lợi, song cũng đứng trước những khó khăn và thách thức mới. Kiên định con đường đã chọn; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm vượt qua mọi chông gai, trở ngại, tất cả vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

     Là cơ quan tham mưu, phục vụ cho Trung ương Đảng và cấp uỷ các cấp, các thế hệ cán bộ, công chức Văn phòng cấp ủy đã luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, đoàn kết một lòng; luôn tận tâm, nỗ lực trong công tác và chiến đấu; không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục vụ đắc lực sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

     Là cơ quan tham mưu, phục vụ cho Trung ương Đảng và cấp uỷ các cấp, các thế hệ cán bộ, công chức Văn phòng cấp ủy đã luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, đoàn kết một lòng; luôn tận tâm, nỗ lực trong công tác và chiến đấu; không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục vụ đắc lực sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

      Với những cống hiến và kết quả đạt được, trong những năm qua, Đảng bộ, cơ quan, công đoàn Văn phòng tỉnh ủy và cán bộ, công chức đã được tặng nhiều bằng khen, cờ thi đua của các ban, ngành Trung ương và địa phương; đặc biệt năm 2010, Văn phòng tỉnh ủy vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì. Đó là sự ghi nhận rất xứng đáng những thành tích mà Đảng bộ, cơ quan Văn phòng tỉnh ủy đã đạt được trong thời gian qua.

     Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức; các nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, nó 9 không chỉ còn là nguy cơ, mà đã trở thành thách thức trong thực tế và ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

     Theo xu thế phát triển của thời đại, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới. Trong khi tình hình thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp, khó dự báo, do có những tranh chấp giữa các nước lớn, giữa các lực lượng; sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai cấp, các dân tộc, các khu vực; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt; cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế diễn ra rất khó lường; tình hình tranh chấp trên Biển Đông, cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước, tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến mới, hết sức phức tạp.

     Ninh Thuận là tỉnh có xuất phát điểm thấp; mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây cao nhưng giá trị, quy mô nền kinh tế còn thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn; bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp cũng chịu tác động nhiều mặt của tình hình khách quan, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh… Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhằm đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững, giữ vững quốc phòng an ninh; thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chúng ta cần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự gương mẫu đi đầu của mỗi cán bộ, đảng viên, sự nỗ lực của các ngành, các cấp và sự đồng thuận của nhân dân. 

     Trước yêu cầu của tình hình mới, nhiệm vụ của Văn phòng tỉnh ủy càng đòi hỏi cao hơn; cán bộ, công chức ở mỗi vị trí công tác cần phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng quê hương Ninh Thuận ngày càng phát triển.

     Trong thời gian tới, Văn phòng tỉnh ủy cần làm tốt một số việc sau:

     Cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy phải luôn trau dồi phẩm chất chính trị, rèn luyện bản lĩnh cách mạng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết nhất trí, tuyệt đối trung thành với Đảng, chấp hành nghiêm và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước.

     Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4-khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. 

     Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Phối hợp hoạt động tốt với các cơ quan, ban, ngành liên quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ... góp phần nâng cao hiệu quả của việc ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định lãnh đạo.

     Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ đảm bảo đáp ứng tốt yêu cầu trong tình hình mới; có tác phong làm việc khoa học, chuyên nghiệp; chủ động, linh hoạt trong xử lý tình huống; có khả năng nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin phục vụ lãnh đạo, tham mưu đúng và trúng vấn đề thực tiễn đặt ra; có tầm tư duy chiến lược dài hạn; có khả năng dự báo tình hình và xu thế phát triển.

     Cần quan tâm thực hiện tốt các khâu của công tác cán bộ; chú trọng công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi 11 dưỡng cán bộ, từng bước chuẩn hoá cán bộ theo chức danh và vị trí công tác; quan tâm đào tạo nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phương pháp tư duy, kiến thức quản lý nhà nước, quản lý xã hội, luật pháp...; đồng thời nghiên cứu, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao đời sống vật chất, tinh thần để cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy yên tâm công tác và cống hiến.

     Tăng cường phối hợp, tham mưu sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ; tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm; đề xuất những chủ trương, chính sách có tầm chiến lược, cơ bản, lâu dài cho sự phát triển bền vững về kinh tế-xã hội, đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững quốc phòng-an ninh, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời kết nối phát triển đồng bộ với các tỉnh trong khu vực.

     Tăng cường phối hợp, tham mưu sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ; tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm; đề xuất những chủ trương, chính sách có tầm chiến lược, cơ bản, lâu dài cho sự phát triển bền vững về kinh tế-xã hội, đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững quốc phòng-an ninh, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời kết nối phát triển đồng bộ với các tỉnh trong khu vực.

     Tin tưởng rằng, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác Văn phòng nói chung và Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận nói riêng sẽ tiếp tục đoàn kết nhất trí, giữ vững bản lĩnh chính trị, nêu cao tinh thần trách nhiệm, mỗi cá nhân, cơ quan, đơn vị đẩy mạnh phong trào thi đua, lập nhiều thành tích xuất sắc, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, xây dựng đất nước và quê hương Ninh Thuận ngày càng phát triển, ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và lòng tin yêu, mến phục của nhân dân. 

Nguyễn Đức Thanh

Bí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII đơn vị Ninh Thuận

 

Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động Hạng ba (ngày 15 tháng 4 năm 2002) 

Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động Hạng ba (ngày 15 tháng 4 năm 2002) 

 VĂN PHÒNG TỈNH UỶ NINH THUẬN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

     Ninh Thuận là tỉnh có nhiều lần nhập và tách địa dư hành chính. Ngày 20 tháng 5 năm 1901, Phủ Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hòa, thành lập tỉnh Phan Rang. Đến năm 1913, Triều Nguyễn bỏ tỉnh Phan Rang, cắt phần đất phía Bắc nhập vào Khánh Hòa, còn phần đất phía Nam nhập vào Bình Thuận. Tháng 7 năm 1922, phần đất nhập vào Khánh Hòa được tách ra thành lập Đạo có huyện An Phước Chàm, năm tổng ở đồng bằng: Mỹ Tường, Đắc Nhơn, Vạn Phước, Phú Quý, Kinh Dinh và hai tổng ở miền núi: É Lâm Hạ, É Lâm Thượng. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Ninh Thuận trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Ninh Thuận được sáp nhập với Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng thành tỉnh Thuận Lâm. Đầu năm 1976, tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy được sáp nhập thành tỉnh Thuận Hải. Thực hiện chủ trương của Quốc hội khóa VIII, tháng 4 năm 1992, Thuận Hải tách ra thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.

     Ngày nay, Ninh Thuận là tỉnh thuộc khu vực duyên hải Nam Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Đông giáp với biển Đông, nằm ở giao điểm của 3 trục lộ giao thông chiến lược là Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc-Nam và Quốc lộ 27 lên Tây Nguyên. Diện tích tự nhiên 3.358 km², có dạng địa hình miền núi, đồng bằng và vùng biển, có 7 đơn vị hành chính cấp huyện (trong đó có thành phố Phan Rang-Tháp Chàm); 65 xã, phường, thị trấn và 402 thôn, khu phố. Dân số hơn 587 ngàn người; có 34 dân tộc anh em cùng sinh sống, dân tộc thiểu số chiếm 23%, chủ yếu là dân tộc Chăm chiếm 11,3%, Raglai 10,2%, còn lại là các dân tộc thiểu số khác. Các tôn giáo có: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hồi giáo (Bàni và Islam), Bàlamôn, Baha’I; đồng bào có đạo chiếm 42% dân số.

     Ninh Thuận mảnh đất có bề dày lịch sử, giàu truyền thống cách mạng, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, dù trải qua bao biến đổi lịch sử, đồng bào các dân tộc trong tỉnh vẫn luôn giữ gìn và phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, cần cù lao động, sáng tạo, góp phần xây dựng quê hương Ninh Thuận ngày càng phát triển giàu mạnh.

     I. TÌNH HÌNH PHỤC VỤ SỰ LÃNH ĐẠO ĐẢNG BỘ TỈNH KHI CHƯA THÀNH LẬP VĂN PHÒNG TỈNH UỶ (1930-1945)

     Trong những năm 1928-1929, trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đã có một số tổ chức Đảng tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như: Chi bộ Tân Việt Cầu Bảo, Chi bộ Tân Việt Đề pô Tháp Chàm và ở Cà Ná,... Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, đề ra chủ trương chọn những người đủ tiêu chuẩn chuyển thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Ninh Thuận, cơ quan liên tỉnh (Ngũ trang) tiến hành thực hiện Nghị quyết chuyển đảng, vào tháng 3-1930 tại khu vực đồn kiểm lâm Tân Mỹ (Ninh Sơn), đồng chí Trần Hữu Duyệt - Bí thư Ngũ Trang cùng với đồng chí Nguyễn Hữu Hương, đại diện cho tỉnh Ninh Thuận và đại diện tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hoà họp triển khai công tác chuyển đảng ở mỗi tỉnh. Đến tháng 4-1930, các chi bộ Tân Việt ở Ninh Thuận tiến hành thực hiện chủ trương chuyển đảng. Từ đây, Ninh Thuận có các chi bộ Cộng sản đầu tiên hoạt động, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh hòa vào phong trào đấu tranh cách mạng của cả nước, cùng đấu tranh thực hiện mục tiêu Cương lĩnh chính trị của Đảng đề ra năm 1930.

     Từ buổi đầu thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tháng 4-1930 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mặc dù chưa hình thành tổ chức nhưng đã có những người làm công tác phục vụ việc liên lạc, in ấn, vận chuyển công văn, giấy tờ, chọn và bảo vệ an toàn địa điểm hội họp của các đồng chí lãnh đạo, góp phần cùng 17 Đảng bộ, nhân dân trong tỉnh và cả nước làm nên thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

     II. VĂN PHÒNG TỈNH ỦY NINH THUẬN GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 

     Hòa bình không được bao lâu, thực dân Pháp dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 21-01-1946, thực dân Pháp từ Đà Lạt trở lại xâm chiếm Ninh Thuận, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

     Trong thời kỳ chống thực dân Pháp, các cơ quan của Tỉnh ủy Ninh Thuận chủ yếu tập trung ở các Chiến khu như CK7, Bác Ái, Anh Dũng... điều kiện sinh hoạt, ăn ở, đi lại và chỉ đạo phong trào gặp khó khăn chồng chất. Cuối năm 1947, Đồng chí Nguyễn Đối (Sáng) được phân công phụ trách công tác Đảng vụ và bắt đầu manh nha hình thành cơ quan Văn phòng tỉnh ủy với các bộ phận công tác như: văn thư, hành chính, quản trị, phòng mật, cơ yếu, trạm giao thông liên lạc... Đến năm 1950, công tác xây dựng Đảng đã có bước phát triển và có đủ các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, lề lối làm việc nề nếp hơn; đây cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận. Mặc dù được thành lập trong điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thốn nhưng Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận đã tích cực phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng ở địa phương, nhất là đã rất cố gắng trong việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phục vụ thành công các kỳ Đại hội, Hội nghị quan trọng của Tỉnh ủy như:

     - Hội nghị Tỉnh ủy cuối tháng 6-1946 bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời gồm 07 đồng chí, đồng chí Trần Huỳnh làm Bí thư, đồng chí Trương Chí Cương làm Phó Bí thư và các Ủy viên tỉnh ủy: Lê Tự Nhiên, Trần Thi, Trần Nguyên Mẫn, Mai Hạnh, 18 Nguyễn Đối (Sáng). Cơ quan Tỉnh ủy đóng tại Càn Khôn (Thuận Lợi) , nay là xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước.

     - Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất được tổ chức tại CK7 (xã Phước Hà, huyện Thuận Nam), khai mạc lúc 14 giờ ngày 06-12, kết thúc vào lúc 08 giờ ngày 11-12-1949. Đại hội có 62 đại biểu đại diện cho các chi bộ cơ sở trong toàn tỉnh về dự. Đại hội đã nhận định tình hình Ninh Thuận về mọi mặt, đề ra nhiệm vụ của Đảng bộ trong năm 1950, bầu Ban Chấp hành mới và tuyên dương các chi bộ đã có tinh thần hy sinh, có nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào cách mạng. Đại hội cũng quyết định duyệt các bản báo cáo về công tác Đảng, chính quyền, dân vận, kinh tài, quân sự, thi đua tiến về làng. Ban chấp hành mới có 9 ủy viên chính thức gồm: Đồng chí Võ Dân- Bí thư tỉnh ủy, đồng chí Việt Kính (Mẫn)- Phó Bí thư kiêm Chủ tịch và các đồng chí: Hồng Tránh (Thi), Lê Văn Toàn (Hiền), Hoàng Hữu Thái, Trần Hiếm, Đỗ Mạnh Hùng (Thọ), Đỗ Công Oanh (Luật), Đỗ Minh Doanh (Khoáng) và hai ủy viên dự khuyết : đồng chí Hoàng Giáo (Đệ) và Trương Văn Cách (Hy). Đại hội có quyết nghị 8 vấn đề trong năm 1950, trong đó có nhiệm vụ chấn chỉnh lại Văn phòng tỉnh ủy.

     - Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II được tổ chức từ ngày 25 đến 31-12-1951 tại CK7. Đại hội đã nghe báo cáo chính trị và quyết nghị về “25 tháng tích cực chuẩn bị chuyển mạng sang tổng phản công”, nghe báo cáo thuyết trình về xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, tiến về làng. Đại hội kiểm điểm về xây dựng lực lượng vũ trang, về phong trào du kích chiến tranh, công tác xây dựng căn cứ, công tác đô thị, công tác dân vận, công tác xây dựng Đảng … Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí chính thức : Lê Văn Hiền- Bí thư tỉnh ủy, Đỗ Mạnh Hùng (Thọ)- Phó Bí thư tỉnh ủy, Trần Soạn, Trần Hiếm, Đỗ Minh Doanh (Khoáng), Hoàng Giáo (Đệ), Nguyễn Đình Cung, Bùi Duy Tú (Thương Dân), Huỳnh Trung (Bằng), Trần Sinh, Nguyễn Hữu Thái và 04 đồng chí Ủy viên dự khuyết: Nguyễn Quế, Võ Thành Hay (Hoài), Nguyễn Thị Ngọc Sương và Nguyễn Khắc Nương. Đầu năm 1952, thực hiện chủ trương giảm biên chế, gọn nhẹ tổ chức, hợp nhất cơ quan Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính và Ty công an thành một cơ quan thống nhất. Đồng chí Lê Văn Hiền (Toàn) - Bí thư kiêm Chủ tịch, đồng chí Huỳnh Trung (Bằng) - Tỉnh ủy viên làm Phó Chủ tịch kiêm Chánh văn phòng tỉnh ủy, đến năm 1954, đồng chí Mai Xuân Thưởng, được phân công phụ trách Văn phòng tỉnh ủy.

     Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và quần chúng nhân dân Ninh Thuận đã kiên trì bám trụ kháng chiến và có biết bao nhiêu gương hy sinh dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân, trong đó có cán bộ, nhân viên Văn phòng tỉnh ủy.

     III. VĂN PHÒNG TỈNH ỦY NINH THUẬN GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 

     Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Ninh Thuận được xem là một trong những chiến trường ác liệt của Khu 6, xa sự chi viện của Trung ương nên chủ yếu phải tự lực, tự cường để hoạt động. Vì vậy, công tác văn phòng được tổ chức gọn nhẹ để đáp ứng yêu cầu thường xuyên di chuyển của các cơ quan lãnh đạo, chú trọng chất lượng công tác, một người có thể kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau, trong đó có tham gia kháng chiến cùng các lực lượng khác. Điển hình trong đêm 29-10-1960, trên căn cứ Anh Dũng (nay là xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn), được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, đồng chí Phạm Thân, đồng chí Ninh cùng cán bộ, nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy và anh em du kích kết hợp với lực lượng võ trang của Tỉnh tấn công tiêu diệt địch tại khu tập trung Ma Nới, Trại Thịt đưa đồng bào về núi . Giai đoạn (1960-1962), đồng chí Lê Văn Tân, được phân công làm Chánh văn phòng tỉnh ủy, sau đó đồng chí Phan Việt Sơn làm Chánh văn phòng tỉnh ủy từ giữa 1962 đến năm 1965.

     Năm 1965, ở Ninh Thuận địch cho tăng cường quân, tiến hành xây dựng các căn cứ quân sự, tăng thêm lực lượng bảo an, dân vệ cho các xã, phường, thôn, ấp. Trước tình đó, cuối năm 1965, Văn phòng Tỉnh ủy đã phục vụ cho Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng phổ biến Nghị quyết Trung ương Cục miền Nam và Nghị quyết Khu ủy khu VI về: đường lối, phương châm đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới; xây dựng ý chí đấu tranh đánh Mỹ cho cán bộ chiến sỹ và đồng bào ở các vùng trong tỉnh. Giai đoạn này, công tác văn phòng được tổ chức khá bài bản và do một đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách; thời kỳ này đã hình thành một số bộ phận chuyên trách như tổng hợp tình hình khoảng 01 đến 02 đồng chí, văn thư đánh máy từ 02 đến 03 đồng chí; quản trị gồm cả y tế và chị nuôi. Bộ phận đông nhất thường là các đồng chí bảo vệ, ở bộ phận này ngoài nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo còn làm nhiều việc khác như sẵn sàng chiến đấu chống càn, tăng gia sản xuất, đào hầm hào, công sự... Bộ phận cơ yếu và điện đài là những bộ phận quan trọng để giữ thông tin liên lạc bất kể ngày đêm. Năm 1965, đồng chí Huỳnh Đức Tỉnh được phân công phụ trách văn phòng tỉnh ủy. Đầu năm 1966, đồng chí Hồ Ngọc Tấn được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy.

     Tháng 7-1970, Văn phòng tỉnh ủy đã tham mưu, phục vụ tổ chức thành công Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ 3. Đại hội đã kiểm điểm hình hình hoạt động của đảng bộ và quân dân trong tỉnh những năm qua, đồng thời đề ra nhiệm vụ, phương hướng cho những năm 1971, 1972. Đại hội bầu Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ gồm 11 đồng chí ủy viên chính thức: Trần Đệ - Bí thư, Nguyễn Nhất Tâm - Phó Bí thư, Phạm Văn, Bố Xuân Hội, Hồ Ngọc Tấn, Nguyễn Đức Thành, Chamaleá Chấn, Nguyễn Văn Bửu, Trần Hữu Phương, Nguyễn Ninh, Nguyễn Tạch và hai ủy viên dự khuyết : Nguyễn Kim Thanh và Nguyễn Hoàng. Đồng chí Nguyễn Hoàng được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy. 

     Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa tham mưu, phục vụ cấp ủy vừa tham gia chống trả các cuộc càn quét nhưng cán bộ, nhân viên Văn phòng tỉnh ủy vẫn luôn lạc quan, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào sức mạnh của nhân dân, tin vào thắng lợi của cách mạng. Chính niềm tin đó đã cổ vũ những người làm công tác văn phòng ngày đêm nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo, nhân viên Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận đã trưởng thành, được phân công đảm nhận nhiều cương vị lãnh đạo chủ chốt của tỉnh sau này; nhiều đồng chí đã lập công xuất sắc, góp phần cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn vào ngày 30- 4-1975.

     IV. VĂN PHÒNG TỈNH ỦY THUẬN HẢI GIAI ĐOẠN 1975 - 1992

     Trải qua 21 năm chiến đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Ninh Thuận đã giành được thắng lợi vào ngày 16-4-1975, góp phần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

     Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận bước vào giai đoạn mới với nhiều nhiệm vụ khó khăn, cấp bách; trước mắt tập trung thiết lập trật tự trị an, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, khôi phục và mở rộng sản xuất. Về tổ chức hành chính, tỉnh Ninh Thuận được sắp xếp với 4 huyện (Ninh Hải, An Phước, Ninh Sơn, Bác Ái) và thị xã Phan Rang-Tháp Chàm, dân số hơn 262.000 người; bộ máy Đảng, chính quyền mới được thành lập, tổ chức Đảng mới chỉ có 31/54 xã, phường; đội ngũ cán bộ chủ yếu tại chỗ.

     Giai đoạn từ tháng 5-1975 đến tháng 02-1976, Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận tiếp tục thực tốt chức năng, nhiệm vụ của mình: Phục vụ các Hội nghị của Ban Chấp hành tháng 5-1975, hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt, tập trung truy quét địch, thiết lập trật tự trị an, nhằm sớm ổn định tình hình, tạo thuận lợi xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội trong tình hình mới..., ra sức xây dựng củng cố lực lượng chính trị, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng bộ máy của các cấp các ngành phù hợp tình hình nhiệm vụ mới. Đã tổ chức hồi cư cho nhân dân các thôn Vĩnh Hy, Thái An, Mỹ Hòa và tái lập xã Vĩnh Hy và các thôn Vĩnh Trường, Từ Thiện và Sơn Hải tái lập xã Phước Dinh. Kết quả vụ hè thu năm 1975, nông dân đã gieo trồng 25.519 ha, sản lượng trên 50.000 tấn; giải quyết xăng dầu, vật tư cho ngư dân khai thác hải sản trên 10.000 tấn hải sản các loại. Chỉ đạo khôi phục các nhà máy đi vào hoạt động: Thủy điện đa Nhim, Nhà máy nước, Sở Muối, Toa xe...Phục vụ hội nghị triển khai quán triệt Nghị quyết 24 ngày 29-9-1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đảng bộ đề ra nhiệm vụ trước mắt: điều chỉnh lại ruộng đất, tăng cường quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Đến cuối năm 1976, tỉnh đã thu hồi được 8.572ha chia cho 15.777 hộ, tiến hành tu bổ hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất, đưa đồng bào vùng cao Bác Ái và Anh Dũng xuống vùng thấp định cư ở Phước Hà, Ma Nới, Trà Co, Tà Lú, MaTy... Đến ngày 20-10-1975, toàn tỉnh bước vào khai giảng năm học mới với 143 trường, 1.104 lớp với 47.908 học sinh; tích cực xóa mù chữ, đẩy mạnh bổ túc văn hóa. Trong thời gian này, cùng với niềm vui quê hương Ninh Thuận được giải phóng, cán bộ Văn phòng tỉnh ủy còn vinh dự được phục vụ đồng chí Lê Duẩn -Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Trường Chinh- Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Phạm Văn Đồng- Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ về thăm và làm việc tại tỉnh Ninh Thuận.

     Tháng 02-1976, thực hiện chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Thuận Hải được thành lập trên cơ sở sáp nhập từ 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, tỉnh lỵ đặt tại Phan Rang-Tháp Chàm. Tháng 11-1976, Văn phòng tỉnh ủy Thuận Hải tham gia phục vụ tốt Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ I (vòng 1) và Đại hội (vòng 2) tháng 3-1977. Thời kỳ 1977-1979, đội ngũ cán bộ Văn phòng tỉnh ủy đã phục vụ triển khai nhiều chủ trương lớn của Tỉnh ủy trong điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ có nhiều thay đổi, đồng chí Hồng Châu- Tỉnh ủy viên được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy.

     Tháng 10-1979, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ II được tổ chức tại thị xã Phan Thiết nhằm đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ I giai đoạn 1977- 1979 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho 2 năm 1980-1981. Tại Đại hội, đồng chí Ngô Triều Sơn được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy. Trong giai đoạn này, Ban Bí thư có Chỉ thị khoán 100-CT/TW, ngày 13-01-1981 là điểm nhấn cho phát triển nông nghiệp, người dân có quyền chủ động trong sản xuất nông nghiệp và thực sự gắn bó với đồng ruộng, xây dựng 6 nông trường quốc doanh, tập thể hóa 49,7% số tàu thuyền, 66,7% số mã lực; ngành tiểu thủ công nghiệp tập thể hóa được 57%...

     Tháng 3-1983, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ III, xác định mục tiêu, nhiệm vụ cho giai đoạn 1983-1985 và triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Giai đoạn này, đồng chí Nguyễn Tri Hóa- Tỉnh ủy viên được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy. 

     Sau 10 năm thống nhất đất nước (1975-1985), mặc dù vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh; nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã phấn đấu gian khổ, khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, xây dựng một số cơ sở vật chất; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh. Văn phòng tỉnh ủy Thuận Hải cũng đã tập trung củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành, đoàn kết thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, phù hợp tình hình nhiệm vụ mới; phục vụ sự lãnh đạo điều hành công việc hằng ngày của Thường trực tỉnh ủy; phối hợp các cơ quan, các ban đảng chuẩn bị tốt các nội dung phục vụ các hội nghị của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành đảng bộ, nhất là phục vụ thành công các Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, II, III; các đợt thăm và làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về thăm tỉnh Ninh Thuận - Thuận Hải.

     Giai đoạn 1986-1991, đây là giai đoạn Văn phòng tỉnh ủy phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Tháng 10-1986, Đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ lần thứ IV diễn ra từ ngày 13 đến ngày 18-10-1986 tại thị xã Phan Thiết với yêu cầu “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”; Đại hội đã xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ngư nghiệp là mũi nhọn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng và xuất khẩu; đồng thời phát triển các ngành cơ khí, vật liệu xây dựng, giao thông vận tải; phát triển văn hóa, giáo dục, y tế; tăng cường an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành đảng bộ gồm 56 đồng chí (trong đó có 11 dự khuyết). Đồng chí Nguyễn Tri Hóa tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, tiếp tục được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh ủy. 

     Sau Đại hội, với tinh thần đổi mới, Văn phòng tỉnh ủy tiếp tục phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực tỉnh ủy, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh triển khai các nội dung quan trọng theo chỉ đạo của Trung ương, đó là: Hội nghị triển khai quán triệt, học tập nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần 2 (khóa VI, tháng 4-1987) về phân phối lưu thông với chủ trương phấn đấu 4 giảm (giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm bớt khó khăn về đời sống); quyết định bỏ cơ chế 2 giá, thực hiện cơ chế 1 giá, xóa bỏ “ngăn sông cấm chợ” tạo thị trường thông suốt trong cả nước. Hội nghị lần thứ 3 (khóa VI, tháng 8-1987) về chuyển hướng hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa và triển khai Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp... Đảng bộ tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn; thúc đẩy sản lượng lương thực tăng nhanh, thực hiện khoán đơn giá giữa người nông dân và hợp tác xã, đồng thời sắp xếp, củng cố các hợp tác xã. Kết quả sản xuất nông nghiệp tăng nhanh về diện tích, sản lượng bảo đảm đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân năm 1989; đồng thời xuất hiện mô hình kinh tế tư nhân trang trại trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, nuôi tôm xuất khẩu, đời sống đa số xã viên và nhân dân được cải thiện; văn hóa xã hội có nhiều khởi sắc; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tháng 5-1990, Hội nghị tỉnh ủy triển khai quán triệt, học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa VI, tháng 3-1990) về “Tình hình quốc tế và nhiệm vụ của Đảng ta” đã có đánh giá về những sai lầm lệch lạc trong cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa và sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và uốn nắn những quan điểm, nhận thức sai lệch, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đồng thời tập trung phục vụ các hoạt động kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng, 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 45 năm ngày Quốc khánh Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

     Từ ngày 25 đến ngày 27-5-1991, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ V (vòng 1) diễn ra tại thị xã Phan Thiết với 326 đại biểu đại diện cho hơn 12.000 đảng viên. Các đại biểu nghe báo cáo tổng hợp góp ý văn kiện dự thảo trình Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng, góp ý dự thảo văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V và bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội lần thứ VII của Đảng. Dự kiến Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ V (vòng 2) vào cuối năm 1991, nhưng do chủ trương của Trung ương chia tách tỉnh Thuận Hải thành 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận nên không tổ chức Đại hội.

     Qua những năm đầu đổi mới (1986-1991), đội ngũ cán bộ Văn phòng tỉnh ủy tiếp tục được rèn luyện và trưởng thành, phục vụ tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh trong công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo; vai trò, vị trí, chức năng của Văn phòng tỉnh ủy tiếp tục được bổ sung và xây dựng với các phòng chức năng như: phòng Nghiên cứu tổng hợp, phòng Hành chính-Quản trị, phòng Văn thư-Lưu trữ.

     V. VĂN PHÒNG TỈNH ỦY NINH THUẬN GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY

     Tỉnh Ninh Thuận được tái lập ngày 01-4-1992 theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10, ngày 26-12-1991; đơn vị hành chính lúc bấy giờ gồm 4 huyện, thị: thị xã Phan Rang-Tháp Chàm, huyện Ninh Sơn, Ninh Hải và Ninh Phước. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh được thành lập theo Quyết định số 266-NS/ TW ngày 14-3-1992 của Bộ Chính trị gồm 20 đồng chí, đồng chí Nguyễn Trung Hậu là Bí thư tỉnh uỷ, đồng chí Châu Thanh Xuân và Nguyễn Văn Hương là Phó Bí thư tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Tri Hoá được phân công làm Chánh Văn phòng tỉnh uỷ.

     Sau khi tỉnh nhà được tái lập và đi vào hoạt động, bên cạnh những thuận lợi, tiềm năng, thế mạnh; vẫn còn nhiều khó khăn do xuất phát điểm về kinh tế-xã hội thấp, cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân còn khó khăn; thu ngân sách địa phương chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư xây dựng tỉnh mới (tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 1992 mới đạt 33,3 tỷ đồng).

     Trước thực trạng này, Tỉnh uỷ đã sớm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo ổn định bộ máy tổ chức cán bộ, đồng thời tập trung chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phòng-an ninh; tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII-Đại hội đầu tiên sau khi tái lập tỉnh. 

     Bộ máy tổ chức của Văn phòng tỉnh ủy thời điểm ngày 01- 4-1992 chỉ có 08 đồng chí, chưa thành lập các phòng chức năng, chỉ phân công phụ trách các lĩnh vực ; thời gian sau bổ sung thêm 10 đồng chí nữa . Trong thời điểm còn nhiều khó khăn, thiếu thốn; cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ đã đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực vượt qua trở ngại, khẩn trương tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm là tham mưu cho Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh uỷ lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác cấp bách, trước mắt của tỉnh, đồng thời chủ động, tích cực chuẩn bị tốt nội dung báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII. Bên cạnh công tác tham mưu, phục vụ cho Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh uỷ; cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ còn tích cực tham gia công tác vệ sinh, cải tạo, tu sửa, nâng cấp trụ sở làm việc của Tỉnh ủy.

     Sau một thời gian chuẩn bị, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII đã tiến hành từ ngày 15-10-1992 đến ngày 17-10- 1992. Đại hội diễn ra trong bối cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thành công tốt đẹp, với Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của nước ta đến năm 2000 đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển toàn diện của cả nước nói chung và Ninh Thuận nói riêng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 35 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Trung Hậu được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ; đồng chí Châu Thanh Xuân và Nguyễn Văn Hương làm Phó Bí thư tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Tri Hoá tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và tiếp tục được phân công nhiệm vụ Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. 

     Đến tháng 4-1993, đồng chí Nguyễn Tri Hoá được điều động, phân công làm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh (nay là Sở Kế hoạch và Đầu tư). Tỉnh uỷ đã điều động đồng chí Đào Thậm-Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh sang làm Chánh Văn phòng tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Bắc Việt-Trưởng Ban Tuyên giáo thị uỷ Phan Rang-Tháp Chàm được điều động, bổ nhiệm làm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 7-1994, Tỉnh uỷ đã điều động và bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Đức Thanh-Trưởng phòng Kinh tế thị xã Phan Rang-Tháp Chàm làm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 01-1995, đồng chí Đào Thậm được bầu làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Nguyễn Bắc Việt được phân công Quyền Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Ngày 06-9-1995, Văn phòng tỉnh uỷ đã ban hành Quyết định số 23-QĐ/VP về quy định tổ chức, bộ máy của Văn phòng; trong đó có bộ phận Tổng hợp và phòng Tổ chức-Hành chính.

     Trong giai đoạn từ năm 1992 đến 1996, với những khó khăn về nhân lực, điều kiện làm việc và các đồng chí lãnh đạo Văn phòng tỉnh ủy có sự điều động, luân chuyển thường xuyên; nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh uỷ, sự nỗ lực của tập thể cán bộ, công chức, Văn phòng tỉnh uỷ đã vượt qua khó khăn, ổn định tổ chức bộ máy, tập trung tham mưu, phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 1992-1995).

     Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, đảng bộ, quân và dân Ninh Thuận đã đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, vượt qua thời kỳ khó khăn và có bước phát triển trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, Ninh Thuận vẫn còn là tỉnh nghèo, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn nhiều yếu kém, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu. Trong bối cảnh đó, Văn phòng tỉnh uỷ đã phối hợp cùng các cơ quan tham mưu tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, rút ra bài học kinh nghiệm để chuẩn bị dự thảo văn kiện cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (nhiệm kỳ 1995-2000). 

     Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đã được tổ chức tại thị xã Phan Rang-Tháp Chàm từ ngày 24 đến ngày 27-4-1996. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 43 đồng chí. Đồng chí Chamaléa Điêu được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ; đồng chí Hồ Hữu Hạnh làm Phó Bí thư tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Đức Thanh được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tháng 6-1996, đồng chí Đào Thậm-Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh được phân công nhiệm vụ Ủy viên Thường vụ trực Đảng (đến tháng 01-2000).

     Tháng 02-2000, đồng chí Huỳnh Công Lai-Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy, Bí thư Thị ủy Phan Rang-Tháp Chàm được điều động, phân công Thường trực tỉnh ủy thay đồng chí Đào Thậm (đến tháng 12-2000). Trong giai đoạn này, bộ máy tổ chức của Văn phòng đã được củng cố, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ tham mưu, phục vụ sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ. Tháng 5-1996, đồng chí Nguyễn Bắc Việt được điều động làm Tổng biên tập Báo Ninh Thuận. Tháng 6-1996, đồng chí Nguyễn Đức Thanh được bổ nhiệm Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 8-1996, đồng chí Nguyễn Minh Trứ được bổ nhiệm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Ngày 21-3-1998 thành lập Tổ cơ yếu thuộc phòng Tổ chức-Hành chính theo quyết định số 255-QĐ/VP; ngày 18-6 -1998 thành lập Kho Lưu trữ tỉnh uỷ theo Quyết định 29-QĐ/TU của Ban Thường vụ tỉnh uỷ; ngày 07- 3-1999 thành lập phòng Nghiên cứu Tổng hợp theo quyết định số 585-QĐ/VP.

     Thực hiện đề án tăng cường chức năng, nhiệm vụ, củng cố tổ chức bộ máy của Văn phòng các tỉnh, thành uỷ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đã sáp nhập Ban Kinh tế, Ban Tài chính-Quản trị và Ban Nội chính tỉnh uỷ vào Văn phòng tỉnh uỷ. Đồng chí Phan Huy Duyên-Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy, nguyên Trưởng ban Kinh tế tỉnh ủy được phân công giúp việc Thường trực tỉnh uỷ lĩnh vực kinh tế (từ tháng 3-1999 đến tháng 02-2001). Đồng chí Đàm Văn Đức-Trưởng Ban Tài chính-Quản trị tỉnh uỷ được điều động giữ chức vụ Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ (tháng 6-2000). Năm 2000, Văn phòng đã có quyết định thành lập các phòng chức năng: Phòng Nghiên cứu tổng hợp (gồm các tổ: Tổng hợp, Kinh tế và Nội chính); Phòng Hành chính-Văn thư-Lưu trữ; Phòng Tổ chức-Quản trị; Phòng Tài chính-Kinh doanh và Nhà khách tỉnh uỷ. 

     Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (nhiệm kỳ 1995-2000), các cấp uỷ Đảng và chính quyền tỉnh đã tập trung chỉ đạo khai thác mọi nguồn lực, thế mạnh, tiềm năng để phát triển kinh tế-xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư phát triển kinh tế-xã hội 5 năm đạt 1.350 tỷ đồng, tăng gần 2 lần thời kỳ 1992-1995. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng 88,6% so với những năm 1991-1995. Kết cấu hạ tầng đô thị, nông thôn, miền núi được đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải thiện rõ nét. Số hộ nghèo giảm từ 22,7% năm (1995) xuống còn 15,5 % (năm 2000). Quốc phòng-an ninh được giữ vững. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng”, Nghị quyết 04-NQ/TU về “Bảo vệ chính trị nội bộ giai đoạn 1997-2000”.

     Những kết quả và thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận đạt được là một sự cố gắng lớn trong điều kiện tỉnh còn rất nhiều khó khăn; trong đó, Văn phòng tỉnh uỷ đã nỗ lực tham mưu, phục vụ đắc lực cho sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ, góp phần vào thành quả chung của Đảng bộ tỉnh.

     Sau chặng đường 10 năm (1991-2000) thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, khắc phục những khó khăn, thiếu thốn, Ninh Thuận đã phấn đấu đạt được những thành tích tiến bộ quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng đô thị, nông thôn, miền núi được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội đều có chuyển biến tiến bộ; đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; sức khỏe nhân dân được chăm sóc tốt hơn; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Quốc phòng-an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được tăng cường; khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trong tỉnh được củng cố vững chắc... những kết quả quan trọng trong giai đoạn này đã tạo tiền đề tích cực, cần thiết cho sự phát triển của tỉnh trong các giai đoạn tiếp theo. 

     Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X khai mạc vào ngày 28-12-2000 tại thị xã Phan Rang-Tháp Chàm. Đại hội đã đề ra mục tiêu cho nhiệm kỳ 2000-2005, đó là: Đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế có hiệu quả và vững chắc hơn, đồng thời giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững quốc phòng-an ninh, phấn đấu đưa Ninh Thuận vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 43 đồng chí. Đồng chí Chamaléa Điêu được bầu lại làm Bí thư tỉnh uỷ; đồng chí Đào Thậm làm Phó Bí thư tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Đức Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và tiếp tục được phân công giữ chức vụ Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 3-2003, đồng chí Nguyễn Văn Giàu-Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Trung ương luân chuyển, phân công làm Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ. Tháng 4-2004, đồng chí Chamaléa ĐiêuBí thư tỉnh uỷ nghỉ chữa bệnh, đồng chí Nguyễn Văn Giàu được phân công Quyền Bí thư tỉnh uỷ. Đồng chí Văn Công An-Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ được phân công Ủy viên Thường vụ trực Đảng (từ tháng 4-2001 đến 12-2005).

     Tháng 7-2001, đồng chí Đinh Văn Vượng-Trưởng phòng Nghiên cứu Tổng hợp được bổ nhiệm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 6-2004, đồng chí Nguyễn Đức Thanh-Chánh Văn phòng tỉnh uỷ được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đinh Văn Vượng được phân công Quyền Chánh Văn phòng tỉnh  uỷ và sau đó là Chánh Văn phòng tỉnh uỷ (tháng 10-2004); đồng chí Trần Văn Định- Trưởng phòng Nghiên cứu Tổng hợp được bổ nhiệm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Văn phòng tỉnh uỷ đã tập trung tổ chức, kiện toàn bộ máy, bổ sung biên chế, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu tham mưu, phục vụ Thường trực, Ban Thường vụ và Tỉnh uỷ. Văn phòng tỉnh ủy có các phòng chức năng: Nghiên cứu Tổng hợp; Tổ chức-Quản trị; Tài chính-Kinh doanh; Cơ yếuCông nghệ thông tin; Hành chính-Văn thư; Lưu trữ và Nhà khách tỉnh.

     Thực hiện Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, nghiêm túc; Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2005-2010) được khai mạc vào ngày 07-12-2005 tại thị xã Phan Rang-Tháp Chàm. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XI diễn ra trong thời điểm công cuộc đổi mới sau 20 năm do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

     Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X và quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đảm bảo quốc phòng-an ninh giai đoạn 2005-2010. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 48 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Giàu được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ; đồng chí Trương Xuân Thìn-Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ; đồng chí Hoàng Thị Út LanPhó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh. Đồng chí Đinh Văn Vượng được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và tiếp tục được phân công giữ chức vụ Chánh Văn phòng tỉnh uỷ.

     Tháng 01-2008, đồng chí Nguyễn Văn Giàu được Trung ương điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đồng chí Trương Xuân Thìn được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Đức Dũng-Trưởng Ban Tổ chức tỉnh uỷ được bầu và phân công làm Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ.

     Tháng 4-2008, đồng chí Đinh Văn Vượng-Chánh Văn phòng tỉnh uỷ được điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ; đồng chí Trần Văn Định-Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ chuyển công tác; đồng chí Lê Đức Khai-Phó Trưởng phòng Tổng hợp được bổ nhiệm Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ. Tháng 5-2008, đồng chí Cao Văn Hoá-Phó Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ được điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh Văn phòng tỉnh uỷ; tháng 6-2008, đồng chí Phạm Văn Bình-Trưởng Công an huyện Thuận Bắc được điều động, bổ nhiệm chức vụ Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ phụ trách, theo dõi công tác nội chính của Văn phòng tỉnh ủy.

     Thực hiện Quy định số 222-QĐ/TW ngày 08-5-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh uỷ, thành uỷ; ngày 31-8-2009, Ban Thường vụ tỉnh ủy đã ban hành Quy định số 2233- QĐ/TU quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Văn phòng tỉnh ủy. Ngày 08-01-2010, Chánh Văn phòng tỉnh ủy có Quyết định số 303-QĐ/VPTU ban hành Quy chế làm việc của Văn phòng tỉnh uỷ, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của lãnh đạo, chuyên viên và các phòng, đơn vị trực thuộc. Sau khi ban hành quy chế, Văn phòng tỉnh uỷ đã tập trung chỉ đạo, kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định, chỉ đạo các phòng, đơn vị trực thuộc xây dựng quy chế làm việc, định biên số lượng nhân sự cụ thể của từng bộ phận. Các phòng, bộ phận trực thuộc gồm có: Tổng hợp, Nội chính, Hành chính-Cơ yếu, Quản trị, Tài chính, Lưu trữ, Trung tâm Công nghệ thông tin và Nhà khách (trực thuộc phòng Quản trị). Giai đoạn này, bộ máy tổ chức đã cơ bản đầy đủ; cán bộ, công chức được tăng cường cả về số lượng, nâng cao hơn về chất lượng; Đảng uỷ, lãnh đạo cơ quan chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quan tâm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức; đội ngũ cán bộ, công chức an tâm công tác, đoàn kết, dân chủ, trách nhiệm, nỗ lực thi đua hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần đắc lực vào thành quả chung của Đảng bộ tỉnh. 

     Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2006-2010) trong điều kiện không ít khó khăn, nhất là sự tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới cùng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh...đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân; mặt khác, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biễn hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; trong khi trình độ khoa học, công nghệ, dân trí và chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh còn thấp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn vốn cho đầu tư so với yêu cầu phát triển còn nhiều hạn chế. Nhưng với sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã phát huy được sức mạnh tổng hợp để thực hiện có kết quả các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng mà Đại hội đã đề ra: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội tỉnh bình quân đạt 10,4%/năm, quy mô nền kinh tế tăng 1,64 lần so năm 2005; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Giá trị sản xuất các ngành: dịch vụ tăng bình quân 10,8%; nông lâm-thủy sản 10,2%; công nghiệpxây dựng 17,3%. Thu ngân sách đạt 665 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD vào năm 2010. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm đạt 18.180 tỷ đồng; GDP bình quân đầu người đạt 11,7 triệu đồng, tăng 2,4 lần so năm 2005; đời sống của nhân dân được nâng lên; quốc phòng-an ninh được bảo đảm; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng. Trong thành tích chung của Đảng bộ có sự đóng góp của cả hệ thống chính trị, trong đó có Văn phòng tỉnh uỷ Ninh Thuận.

     Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010-2015) diễn ra trong bối cảnh đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16-9-2010 tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Chủ đề của Đại hội là: “Phát huy truyền thống đoàn kết, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sức mạnh của hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững; đảm bảo quốc phòng-an ninh”. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 53 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Chí Dũng được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Đức Dũng-Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Đức Thanh-Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh. Đồng chí Cao Văn Hoá tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và tiếp tục được phân công giữ chức vụ Chánh Văn phòng tỉnh uỷ.

     Tháng 12-2013, đồng chí Nguyễn Đức Dũng-Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ nghỉ chế độ theo quy định. Tháng 02-2014, đồng chí Lưu Xuân Vĩnh-Trưởng Ban Tổ chức tỉnh uỷ được bầu và phân công làm Phó Bí thư Thường trực tỉnh uỷ, đến tháng 6-2014, đồng chí được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh. Tháng 3-2014, đồng chí Nguyễn Chí Dũng-Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh uỷ được Trung ương điều động, bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đồng chí Nguyễn Đức Thanh-Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh được bầu làm Bí thư tỉnh uỷ (tháng 5-2014). 

     Về lãnh đạo Văn phòng tỉnh uỷ, có các đồng chí: Cao Văn Hoá-Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng tỉnh uỷ; tháng 4-2011, Tỉnh uỷ đã điều động đồng chí Lâm Đông-nguyên Bí thư huyện uỷ Bác Ái giữ chức vụ Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ; tháng 5-2012, đồng chí Lê Văn Hải-Phó Giám đốc Công ty Cổ phần kinh doanh tổng hợp Ninh Thuận được điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ; tháng 12-2012, đồng chí Lê Đức Khai -Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ chuyển công tác khác; tháng 11- 2013, đồng chí Tạ Minh Thao-Trưởng phòng Tổng hợp được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ.

     Thực hiện Quy định số 219-QĐ/TW ngày 27-12-2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh uỷ, thành uỷ; ngày 06-3-2014, Ban Thường vụ tỉnh ủy ban hành Quy định số 2464-QĐ/TU quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Văn phòng tỉnh ủy. Văn phòng tỉnh uỷ đã ban hành Quy chế làm việc và tổ chức lại bộ máy các phòng làm việc theo quy định, với 06 phòng trực thuộc: Tổng hợp, Hành chính-Tiếp dân, Quản trị, Tài chính Đảng, Cơ yếu-Công nghệ thông tin, Lưu trữ và Nhà công vụ trực thuộc Phòng Quản trị. Tháng 7-2013, Tỉnh uỷ đã thành lập Ban Nội chính, phòng Nội chính của Văn phòng tỉnh uỷ đã được chuyển giao sang Ban Nội chính tỉnh uỷ. 

     Đối với Văn phòng cấp ủy cấp huyện, thực hiện Quy định số 220-QĐ/TW, ngày 27-12-2013 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; Văn phòng các huyện, thành ủy có chức năng là cơ quan tham mưu, giúp việc huyện ủy mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực huyện ủy trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp hoạt động các cơ quan tham mưu, giúp việc huyện ủy; là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện ủy; trực tiếp quản lý tài sản, tài chính của huyện ủy và bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của huyện ủy, ban thường vụ, thường trực huyện ủy và các cơ quan tham mưu, giúp việc huyện ủy. Hiện nay biên chế bộ máy của Văn phòng cấp ủy cấp huyện theo quy định có từ 11 đến 13 biên chế, trong đó có Chánh Văn phòng và có 01 đến 02 Phó Chánh Văn phòng. 

     Hơn 20 năm qua, kể từ ngày tái lập tỉnh đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Thường trực tỉnh uỷ, Văn phòng tỉnh ủy đã luôn đoàn kết, trách nhiệm, phát huy dân chủ, nỗ lực trong công tác, có nhiều tiến bộ trong thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc cho cấp uỷ, thể hiện trên một số mặt sau: 

     Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu giúp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình toàn khóa, hằng năm, quý, tháng, tuần nề nếp, khoa học, có trọng tâm, trọng điểm đã giúp cấp uỷ đề ra chủ trương lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng-an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. 

     Cung cấp kịp thời thông tin, tham mưu đề xuất ý kiến vào quá trình ban hành các văn bản chỉ đạo quan trọng; trực tiếp biên tập, thẩm định các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, đề án của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ; bảo đảm các điều kiện làm việc về thông tin liên lạc, trụ sở làm việc, tài chính của Đảng; bảo quản, giữ gìn các tài liệu Đảng theo đúng quy định bảo mật; bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng tham mưu tổng hợp cũng như các hoạt động khác của Văn phòng cấp ủy cấp huyện; chủ động cùng các ban Đảng giúp cấp ủy, Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy tổ chức thành công các kỳ Đại hội Đảng bộ, hội nghị sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Trung ương và của tỉnh; chủ động đề xuất các vấn đề cần thiết, cấp bách để Ban Thường vụ tỉnh ủy bàn và quyết định; tham mưu đổi mới và nâng chất lượng phục vụ các hội nghị. Triển khai thực hiện tiêu chí quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO:9001-2008; không ngừng thực hiện tốt công tác cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ.

     Tổ chức thông tin nội bộ trong khối Đảng hoạt động có hiệu quả, đáp ứng kịp thời cho sự chỉ đạo của cấp ủy; xây dựng, trình duyệt và tổ chức triển khai có kết quả Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn Đảng bộ. Tiếp nhận hàng chục ngàn văn bản của các cơ quan Trung ương và địa phương, đồng thời tổ chức luân chuyển xử lý một cách nhanh chóng, chính xác, bảo mật; phát hành các văn bản của cấp ủy bảo đảm đúng thể thức, đúng thẩm quyền, kịp thời, không bị sai sót. Công tác cơ yếu luôn đảm bảo bí mật, chính xác, an toàn, kịp thời. Công tác quản trị phục vụ bảo đảm kịp thời, đúng chế độ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ; thực hiện công tác đối ngoại đúng quy định, đón tiếp khách chu đáo, tận tình.

     Trải qua quá trình công tác với nhiều thành tích đạt được, Đảng bộ, cơ quan và các tổ chức đoàn thể của Văn phòng được Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cơ quan Trung ương tặng nhiều bằng khen, cờ thi đua. Đặc biệt, năm 2002, Văn phòng tỉnh ủy vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba, năm 2010 được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì. Đó là sự ghi nhận xứng đáng những thành tích mà Đảng bộ, cơ quan Văn phòng tỉnh ủy đã đạt được trong thời gian qua.

     Thực tiễn đang đặt ra cho Đảng bộ tỉnh phải không ngừng đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách sâu sát, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2011-2015, chuẩn bị các điều kiện cho giai đoạn tiếp theo. Đòi hỏi đó đặt ra cho Văn phòng tỉnh ủy những yêu cầu cao hơn mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 

     Phát huy truyền thống “Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, sáng tạo, tận tụy, chu đáo, giữ vững nguyên tắc”, tập thể cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị; đoàn kết nhất trí; tiếp tục học tập nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đổi mới tác phong và phương pháp công tác để hoàn thành tốt hơn chức năng tham mưu, phục vụ, giúp Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy tổ chức lãnh đạo có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và những nhiệm kỳ tiếp theo.

Ban Biên Tập 

     

     

 Nhớ những ngày tháng 4!

     Mùa xuân đi qua, tháng 4 lại đến. Đường phố, thôn xóm, bản làng xa xôi, đâu đâu cũng rợp bóng cờ bay mừng ngày giải phóng Miền nam, thống nhất Tổ quốc, làm dậy lên trong lòng người đi qua thời chiến tranh những kỷ niệm.

     Từ cơ quan Huyện ủy Tánh Linh- Bình Thuận, tôi được điều về Đoàn H.50 từ ngày đầu đơn vị thành lập (tháng 4 năm 1967) và ở đó cho mãi đến ngày kết thúc cuộc chiến. Đoàn H.50 là đơn vị chuyên vận tải vũ khí đạn dược phục vụ chiến trường Khu 6. Hằng năm vào tháng 4, đỉnh điểm mùa khô, những chuyến hàng dài ngày, đông người đi phục vụ chiến dịch nối nhau như trẫy hội trên tuyến đường dài hơn 350 cây số, sông suối chằng chịt, núi non hiểm trở. Những đoàn khách qua đây, có lẽ cái cảm nhận đầu tiên là đi đâu cũng gặp đàn bà. Có người thốt lên: nữ đâu nhiều thế, rồi tắc lưỡi, lắc đầu nhìn những cô gái thân hình nhỏ nhắn cõng trên lưng bòng hàng nặng bằng trọng lượng bản thân, nhích từng bước như con sâu đo lên đỉnh dốc Ba Thang. Sững sờ trước những “cú” ngã trượt chân của cô gái nào đó rơi xuống vực hoặc thót tim nhìn đoàn người cõng hàng vượt qua trãng trống Đường 14 như hàng cây di động trong tiếng máy bay của địch đến gần… và chứng kiến những đắng lòng vì đồng đội của họ đi mãi không về.

     Chiến tranh, mặt trận nào có phụ nữ tham gia, ở đó sự khốc liệt của đạn bom mềm đi, sông nước, lá rừng xanh hơn. Trong gian khổ, hiểm nguy, các cô gái vận tải H.50 đã tạo nên những bức tranh đẹp. Qua cầu treo, vượt sông nước là chuyện “thường ngày”. Nếu là nhà văn, nhà thơ, nhiếp ảnh, quay phim… chắc không bỏ qua khi trông thấy cô gái vượt sông. Có bến sông phải qua nhanh để tránh máy bay địch. Bè dùng chở hàng, người tự đu dây qua sông. Khi hàng được kéo đi, liền đó là dòng người trong bộ quần áo bà ba đen, nón tai bèo bỏ ngược sau lưng, quần săn tận vế, tay nắm vào dây phăng đi như vận động viên trên đường đua xanh. Những đôi chân trần nõn nà, những mái tóc dài lượn trên sóng nước làm xanh hơn màu nước sông tháng 4. 

     Tám năm mang súng đạn đi trong bom lửa... những cô gái vẫn tràn đầy sức sống, phơi phới niềm tin. Tháng 4 hằng năm đối với họ là thời khắc “đến hẹn lại lên”. Rồi những ngày tháng 4 năm 1975, tin chiến thắng từ chiến trường bay về: Đoàn quân thần tốc Cách mạng, lần lượt đập tan các cứ điểm của địch, dồn chúng đến tận hang ổ. Những chiến sỹ H.50 ngày ấy niềm vui không kể siết, sức mạnh như tăng lên. Ngày không có đêm, núi cao dốc đứng cúi đầu nhường bước, sông nước êm đềm dịu mát hơn, họ đi như chạy, như bay. Một ngày bằng mười ngày, mười ngày bằng ngàn ngày. Nhiều chị lần đầu tiên được hành quân chung trong đội hình bộ đội chủ lực, cùng người chiến sỹ cầm súng phía trước hát vang lời ca “Tiến về Sài Gòn- ta quét sạch giặc thù- giải phóng Thành đô…”. Ngày cuối tháng 4 năm 1975, nhiệm vụ vận tải bằng sức người không còn nữa. H.50 giải thể, tôi tạm biệt đồng đội, chia tay tuyến đường mà tôi đã sống trọn thời gian để đi nhận nhiệm vụ mới.

     Rồi từ đó, dòng đời cứ mãi đong đưa! Tháng 4 năm 1976, tôi lại về nhận công tác tại Ninh Thuận. Đến tháng 4 năm 2001, tôi được phân công Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ trực Đảng, trực tiếp chỉ đạo và làm việc với Văn phòng tỉnh uỷ; đến tháng 12-2005 thì được nghỉ chế độ theo quy định, thời gian tuy không dài nhưng lắng đọng trong tôi nhiều niềm vui và nỗi nhớ!

     Ba mươi chín năm sau giải phóng, tôi đã sống ba mươi sáu lần với những ngày tháng 4 nơi Phan Rang “đầy gió và đầy nắng”, biết bao kỷ niệm. Mỗi khi tháng 4 về, tưởng như có sự bão hòa  nhưng không có sự bão hòa nào cả. Cuộc sống đã chẳng lặp lại cái gì đó y nguyên,…cái thị xã nhỏ ngày nào giờ đây đã khác xa. Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh đang phấn đấu đạt chuẩn đô thị loại 2 vào năm 2015. Ninh Thuận đổi thịt thay da từng ngày, cuộc sống nhân dân ngày càng sung túc hơn. Những thiết yếu đời sống: điện, đường, trường, trạm,… đã đến mọi vùng, mọi nhà. Trên những vùng đất khô cằn: Tháp Chàm, Cà Đú, Quán Thẻ,… nhà máy, xí nghiệp từng bước mọc lên. Hơn 185 triệu khối nước được hồ đập giữ lại, hàng chục ngàn ha rừng trồng mới trên vùng nắng gió, cát bay. Cây và nước làm cho cái nắng như “rang” cái gió như “phan” đã “dịu dàng” trở lại.

     Tháng 4 này, ai có dạo chơi trên tuyến đường mới ven biển sẽ không khỏi cảm xúc trước vẻ đẹp đất trời quê hương. Con đường Vĩnh Hy - Bình Tiên như dải lụa lượn khúc, uốn quanh theo sườn núi, vách đá, soi mình trên bóng nước biển cả mênh mông, sâu thẳm trong tiếng rì rào vỗ bờ bất tận của sóng như có cả âm thanh kèn Saranai réo rắt, tiếng đàn Chapi trầm mặc, tiếng Mãla ngân vang, tiếng trống Paranưng rộn ràng như lời mời mọc: Ai có đi đâu nhớ về Ninh Thuận!.

     Tháng 4! tháng 4 năm 1975 là mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam, để nhân dân ta tiếp tục hành trình trên con đường dựng xây Đất nước - một nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc hùng cường. Tháng 4 đối với tôi còn là duyên phận: tôi sinh tháng 4, tham gia cách mạng tháng 4, đến Đoàn vận tải H.50 tháng 4 rồi trở thành anh bộ đội, tháng 4 tôi được kết nạp Đảng, là người lính may mắn được nhìn thấy Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đất nước hòa bình thống nhất trong những ngày tháng 4 lịch sử. Và cũng tháng 4, tôi trở về công tác tại Phan Rang, tháng 4 được phân công Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ trực Đảng, trực tiếp phụ trách Văn phòng tỉnh uỷ; ở đây, tôi đã luôn gần gũi, sẵn sàng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm công tác, quan tâm chỉ đạo, dìu dắt, tạo điều kiện cho Văn phòng hoàn thành tốt chức năng tham mưu, phục vụ cấp uỷ tỉnh. 

Văn Công An

Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ trực Đảng 

Chiến sĩ Trường Sa 

Gác Đêm

                           Văn Công An

Làng chài khói lam mờ vĩnh nhỏ

Bờ mây nhuận đỏ sắc hoàng hôn

Mũi thuyền, đầu súng chao trên sóng

Ngút ngàn biển óng, bóng sao đêm

Trong sương vọng tiếng loài chim biển

Xa bày, hay đã nhớ cùng ai

Phiên gác đêm nay sao mà nhớ

Nhớ Trường Sa- biển đảo thân yêu.

NHỚ LẠI NHỮNG NGÀY ĐẦU

     Ngày 01 tháng 4 năm 1992 ghi một dấu ấn quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển tỉnh nhà, đó là việc tái lập tỉnh Ninh Thuận theo quyết định của Quốc hội chia tách tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận.

     Ngay những ngày đầu năm 1992, cơ quan Văn phòng tỉnh ủy Thuận Hải hòa nhập trong không khí phấn khởi của việc chia tách tỉnh đã tích cực chuẩn bị mọi mặt cho việc hình thành tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận. Đúng 05 giờ chiều ngày 30-3-1992, chuyến xe cuối cùng chở cán bộ, nhân viên cùng hồ sơ, tài liệu, tài sản của Ban Thường vụ tỉnh ủy và Văn phòng tỉnh ủy từ Phan Thiết ra đã có mặt tại Phan Rang, tiếp nhận cơ sở du lịch của tỉnh Thuận Hải làm trụ sở Tỉnh ủy và Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận.

     Quên sao được những ngày đầu tái lập tỉnh, khó khăn, thiếu thốn mọi bề. Với số lượng cán bộ, nhân viên chỉ có 08 người, cơ sở vật chất nghèo nàn nhưng đã đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn về nơi ăn, chốn ở, phương tiện làm việc, sớm ổn định tổ chức và tư tưởng, bắt tay vào làm việc đúng ngày 01-4-1992.

      Hình ảnh đồng chí Bí thư tỉnh ủy và cán bộ, nhân viên Văn phòng tỉnh ủy cùng ăn bếp ăn tập thể đạm bạc mà vui vẻ vẫn còn lắng đọng; điện nước lập lòe, đứt quãng, chi tiêu tài chính phải cân đối từng ngày cho khối Đảng tỉnh, huyện…nhưng tất cả đều vượt qua, khẩn trương tập trung cho nhiệm vụ công tác, trọng tâm là tham mưu cho Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy xây dựng chương trình hành động để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác cấp bách trước mắt của tỉnh mới, đồng thời tích cực chuẩn bị tốt nội dung báo cáo Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII- Đại hội đầu tiên của tỉnh sau chia tách trong điều kiện hết sức khó khăn, thiếu các dữ kiện và yêu cầu khẩn trương về thời gian. Báo cáo Đại hội đã tập trung đánh giá đúng những tiềm năng, lợi thế, khó khăn, thuận lợi của tỉnh mới và đề ra phương hướng, nhiệm vụ 04 năm từ 1992 đến 1995. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII tiến hành ngày 15 đến 17-10-1992 là một dấu ấn quan trọng, tạo đà phát triển cho những năm sau.

     Tôi vui mừng nhận thấy: Hòa chung với chuyển biến toàn diện ngày càng khởi sắc của tỉnh nhà, Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận hơn 20 năm qua đã có bước trưởng thành, tổ chức bộ máy ngày càng lớn mạnh, đã phát huy truyền thống đoàn kết, trung thành, tận tụy, làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, là trung tâm thông tin tổng hợp, phục vụ tích cực sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy.

     Nhân kỷ niệm 84 năm- Ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy, tôi xin gửi đến các đồng chí lời chúc mừng tốt đẹp nhất.!. 

 

TRỤ SỞ TỈNH ỦY

ĐỊA CHỈ ĐỎ CẦN ĐƯỢC GHI NHỚ 

     Trụ sở Tỉnh ủy ngày nay- thời Pháp thuộc là dinh Công sứ Pháp (Tòa sứ). Sau giải phóng Ninh Thuận (16-4-1975), nơi đây là trụ sở của Tỉnh ủy Ninh Thuận, rồi Thuận Hải. Năm 1977, các cơ quan của tỉnh Thuận Hải chuyển về Phan Thiết, địa điểm này do ngành du lịch quản lý. Sau ngày tái lập tỉnh Ninh Thuận, nơi đây tiếp tục là trụ sở của Tỉnh ủy Ninh Thuận cho đến ngày nay. Trải qua các giai đoạn lịch sử, có một sự kiện đã diễn ra và để lại ký ức không thể quên đối với người dân Ninh Thuận. Đó là sự kiện diễn ra vào những ngày đầu sau khi ta khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám thắng lợi ở Ninh Thuận, ngày 21-8-1945.

     Sau khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Ninh Thuận, lực lượng Nhật rút về Sài Gòn. Tuy nhiên, theo lệnh của quân Anh, lực lượng Nhật quay trở lại Ninh Thuận- 3 trung đội ở Phan Rang, 1 trung đội đóng ở Tháp Chàm- chờ quân Đồng minh đến giải giáp vũ khí. Thực tế theo ý đồ của Anh, Pháp là muốn dùng lực lượng lính Nhật làm hậu thuẫn cho thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Ninh Thuận. Biết được ý đồ của địch và trước thái độ hống hách của lính Nhật với nhân dân, ta yêu cầu Nhật giao nộp vũ khí, nhưng chúng không chấp nhận. Trước tình hình đó ta chủ trương cô lập, uy hiếp tinh thần quân Nhật buộc chúng đầu hàng. 

     Để tránh bị cô lập, Nhật cho 1 tiểu đội đang đóng ở Tháp Chàm đi liên lạc với số quân đang đóng ở Đà Lạt. Trước ý đồ của địch, ta cho lực lượng chặn đánh Nhật ở cầu Tân Mỹ, buộc chúng phải về lại Tháp Chàm. Tình hình giữa ta và lực lượng Nhật trở nên căng thẳng. Nhật rút lực lượng đang đóng ở Tháp Chàm về Phan Rang tập trung ở trường Nam (nay là trường THCS Lý Tự Trọng, phường Mỹ Hương, Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm). Ngày 23-9, Nam bộ đã bước vào kháng chiến chống thực dân Pháp; lúc này Pháp cho lực lượng đánh ra phòng tuyến của ta ở Bình Thuận và tấn công Nha Trang. Để trừ hiểm họa- Nhật làm hậu thuận cho thực dân Pháp, ta chủ truơng tiến đánh lực lượng Nhật ở Phan Rang.

     Rạng sáng ngày 10-11-1945, ta tiến đánh lực lượng Nhật đang chiếm đóng ở Trường Nam. Lực lượng của ta lúc đầu gồm có bộ đội giải phóng quân của tỉnh, du kích, tự vệ làng Dư Khánh, Bảo An. Do vũ khí của ta thô sơ, chủ yếu là gậy gộc, giáo mác, súng trường; lại chưa có kinh nghiệm đánh địch cố thủ, vũ khí trang bị tốt hơn- súng máy, súng trường... cho nên lực lượng bộ đội, du kích của ta xông vào đều bị hỏa lực của địch đánh bật ra và chịu nhiều tổn thất. Sau khi có lực lượng của bộ đội Nam Long từ Bình Thuận ra và trung đội Lê Trung Đình từ Quảng Ngãi vào, ta tổ chức tiến công địch lần hai. Lực lượng Nhật buộc phải tìm cách tháo chạy sang Tòa Sứ cố thủ. Ta tiếp tục bao vây, đánh địch ở Tòa Sứ, khí thế đánh Nhật dâng lên rất cao. Đồng bào thị xã, các địa phương trong tỉnh động viên tiếp sức cho lực lượng đánh Nhật bằng sự cổ vũ, nấu cơm, tiếp nước cho bộ đội du kích; đồng bào Raglai với vũ khí là cung tên cũng kéo về tỉnh tham gia đánh Nhật. Sau hơn 10 ngày bị lực lượng ta bao vây, tiến đánh, lực lượng Nhật tháo chạy qua sông Dinh tìm đường lên Liên Khàng (Lâm Viên). Trên đường tháo chạy chúng tiếp tục bị lực lượng ta truy đuổi. Ta vào tiếp quản Tòa Sứ, thu 11 súng trường đã bị phá hỏng và 4 xác lính Nhật.

     Trận đánh Nhật ở Trường Nam và Tòa Sứ vào những ngày của tháng 10-1945 là chiến công đầu tiên của quân và dân Ninh Thuận sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta đã buộc lực lượng binh lính Nhật còn lại tháo chạy khỏi Ninh Thuận, bớt một hiểm họa để dồn sức chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến công đầu đó được tô thắm bởi sự chiến đấu gan dạ, hy sinh anh dũng của bộ đội, du kích... những tấm gương cao đẹp đó mãi mãi được ghi nhớ.

     Gần 70 năm đã trôi qua, Trường Nam, Tòa Sứ năm xưa vẫn còn đó. Tòa Sứ nay đang là trụ sở của Tỉnh ủy. Nơi đây tuy có nhiều đổi thay- khang trang, đẹp đẽ hơn, có những tòa nhà mới được xây dựng; nhưng Dinh Công Sứ vẫn còn- hiện là tòa nhà có phòng họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nơi làm việc, tiếp khách của Thường trực Tỉnh ủy, lãnh đạo Văn phòng tỉnh ủy- tuy đã được sửa chữa, nâng cấp nhưng vẫn trên nền móng Tòa Sứ trước đây. Để ghi nhớ chiến công của quân và dân ta những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945- Trường Nam và Tòa Sứ xứng đáng được xem là những địa chỉ đỏ góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Nguyễn Bắc Việt

Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII đơn vị Ninh Thuận, nguyên Quyền Chánh Văn phòng tỉnh uỷ 

 VĂN PHÒNG TỈNH UỶ NINH THUẬN

VƯỢT KHÓ ĐI LÊN

     Tôi có một vinh dự là được công tác ở Văn phòng cấp ủy hơn 30 năm, trong đó ở Văn phòng Tỉnh ủy Ninh Thuận hơn 16 năm. Tôi được biết trước đây- và ngay cả bây giờ- nhiều người không muốn về công tác ở Văn phòng cấp ủy vì cho rằng môi trường làm việc ở đây đơn điệu, thuần túy là phục vụ, không có đất dụng võ. Nhưng thực tế, công tác tham mưu và phục vụ của Văn phòng cấp ủy hết sức đặc biệt và quan trọng, nhất là tham mưu tổ chức công việc lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy, không phải ai muốn cũng được về công tác ở Văn phòng cấp ủy, mà phải là những đồng chí “vừa hồng, vừa chuyên”.

     Khi viết về cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy Ninh Thuận- nơi mà mình đã từng công tác, tôi có nhiều cảm xúc, nhưng khó viết, nên chỉ tản mạn đôi điều tâm sự.

     Nhớ mãi những ngày đầu mới tái lập tỉnh (tháng 4-1992), khó khăn bộn bề, thiếu thốn cả về cơ sở vật chất lẫn nhân sự. Nơi làm việc ban ngày, ban đêm tạm sử dụng làm chỗ nghỉ, cơ quan chưa có bếp ăn tập thể. Cuối tuần, anh em cơ quan muốn cải thiện cũng phải cân nhắc kỹ, mua thực phẩm, gia vị gì cho nhiều đạm mà hợp khẩu vị, ngon, bổ, vừa với túi tiền. Trong điều kiện ấy, cán bộ, công chức cơ quan vẫn chung sức, chung lòng, vượt khó, mỗi người làm việc bằng hai với mong muốn làm tốt công tác tham mưu và phục vụ cấp ủy. Do yêu cầu công việc, nhiều anh chị em không phải làm việc chỉ trong 8 giờ hành chính mà phải kéo dài đến lúc xong việc, cho nên nhiều anh chị em phải “đi vươn thở, về tiếng thơ”. 

     Đó là sự nỗ lực, góp sức rất lớn của nhiều người. Sự cống hiến của các chị em trong Văn phòng rất đáng trân trọng và tự hào. Áp lực công việc của cơ quan nhiều như vậy, nhưng các chị em không hề giảm đi phần nào công việc chăm sóc con cái, chăm lo bữa ăn gia đình mà còn tranh thủ làm thêm nghề phụ để có thu nhập. Vất vả là vậy, nhưng lúc nào tôi cũng thấy nụ cười “thường trực trên môi”. Chị Lâm Anh, chân yếu tay mềm, vẫn đi gánh từng gánh nước về để cho khách sử dụng vì lúc bấy giờ nhà khách bố trí tạm trong cơ quan, thường xuyên bị cúp nước. Anh Lê Sơn Yên chăm sóc đồng chí Bí thư tỉnh ủy điều trị bệnh ở thành phố Hồ Chí Minh hàng năm trời, nhiều lúc còn làm thay công việc của gia đình, y tá với tình cảm sâu nặng, trách nhiệm rất cao. Để đảm bảo cho lãnh đạo đi công tác được thuận lợi đến cơ sở mà lái xe chưa biết đường, anh Đinh Hữu Mữu không chỉ dùng điện thoại hỏi đường, mà còn sử dụng honda đi thị sát trước để chuyến đi chu đáo, nhanh chóng, an toàn

     Lãnh đạo và nhân viên cơ quan luôn đoàn kết, sống tình cảm, hoà đồng, trách nhiệm; ngày lễ, tết hoặc gia đình cán bộ, nhân viên có chuyện vui, buồn, cả Văn phòng đều đến chia sẻ, động viên. Ở Văn phòng tỉnh ủy, một ý nghĩ, một việc làm, một thành tích đều không của riêng ai. Tính tập thể trong công tác ở Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận rất đặc biệt, nhưng trách nhiệm thì rất rõ ràng. 

     Là địa phương còn nhiều khó khăn, nhưng Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận là một trong những Văn phòng tỉnh ủy, thành ủy “có thương hiệu”, đi đầu trong xây dựng tiêu chí quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn Việt Nam ISO: 9001-2008 và đã áp dụng có hiệu quả trong các quy trình công tác. Các cơ quan, ban ngành cứ ngỡ ngàng, thán phục: Làm sao Văn phòng tỉnh ủy “đọc được suy nghĩ của lãnh đạo” để chủ động trong công tác tham mưu, phục vụ?.  Đúng là để hoàn thành tốt công việc thì phải vượt qua rất nhiều khó khăn; cán bộ, công chức đều ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để nỗ lực phấn đấu từng ngày, từng giờ.

     Ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc trong công việc và sự nhạy bén trong nhân tố mới là những điểm nổi bật của cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận. Ý thức, thái độ ấy là cơ sở vững chắc để tạo ra và duy trì nếp làm việc nghiêm túc, chặt chẽ, ngăn nắp từ việc lớn đến việc nhỏ. Đó chính là điểm mạnh về tinh thần và tổ chức để Văn phòng tỉnh ủy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

     Ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc trong công việc và sự nhạy bén trong nhân tố mới là những điểm nổi bật của cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận. Ý thức, thái độ ấy là cơ sở vững chắc để tạo ra và duy trì nếp làm việc nghiêm túc, chặt chẽ, ngăn nắp từ việc lớn đến việc nhỏ. Đó chính là điểm mạnh về tinh thần và tổ chức để Văn phòng tỉnh ủy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đinh Văn Vượng

 Hàm Vụ trưởng Vụ Địa phương II-Văn phòng Trung ương Đảng, Nguyên Chánh Văn phòng tỉnh uỷ  

 NGƯỜI “ANH CẢ” CỦA VĂN PHÒNG TỈNH ỦY

     Anh em chúng tôi thường gọi anh Nguyễn Tri Hóa bằng thái độ trân trọng và biết ơn như vậy.

     Danh xưng trân trọng, biết ơn ấy không chỉ vì anh có thâm niên trong nghề Văn phòng cấp ủy, điều chính yếu là ở khả năng và đức độ của một Chánh Văn phòng những năm đầu tỉnh Ninh Thuận được tái lập.

     Anh Nguyễn Tri Hóa rất ít nói về mình. Bản tính trầm lặng, nhỏ nhẹ nhưng rất chỉn chu. Những ngày đầu tái lập tỉnh, giữa bao bộn bề công việc, vừa phải lo cho anh em từ Bình Thuận ra có nơi ăn, chốn ở, vừa phải triển khai ngay các nhiệm vụ của cấp ủy giao, anh Nguyễn Tri Hóa tập hợp được một đội ngũ từ nhiều nguồn trở về, chung sống đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm trong mái ấm ngôi nhà Văn phòng tỉnh ủy.

     Anh thường tâm sự với chúng tôi: Trong khó khăn gian khổ lại càng phải đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Công việc Văn phòng cấp ủy không chỉ thể hiện trong chương trình công tác năm, quý, tháng mà có khi (thậm chí là nhiều khi) có việc không tên, không theo lịch trình và rất đột xuất, do vậy anh em làm Tổng hợp hay công tác Hành chính, Quản trị phải thực sự chủ động, thấy hết việc để làm và phải làm việc với cả tinh thần tận tâm, tận lực để phục vụ nhiệm vụ chung.

     Nhận ở anh những lời dạy chí tình, chúng tôi đã làm việc với tinh thần “đi vươn thở, về đêm thơ” (đi làm sớm hơn giờ hành chính quy định, về nhà khi hoàn tất nhiệm vụ trong ngày), quên cả thời gian, không để việc dồn lấn, ứ đọng.

     Được sống với người có khả năng và đức độ đủ đầy, lớp trẻ chúng tôi thu nhận ở anh Nguyễn Tri Hóa nhiều kinh nghiệm và bài học quý giá, bổ sung vào hành trang kiến thức và vốn sống cho mình, tiếp tục rèn luyện phấn đấu là những cán bộ trung kiên của Đảng, xứng đáng với thế hệ đi trước và truyền thống của Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận.

     Tuổi đã cao, sức khỏe gần đây có giảm đôi chút, mỗi lần gặp anh Nguyễn Tri Hóa- vẫn nụ cười hiền từ, thân thiện, cái bắt tay xiết chặt, tôi như nhận được từ sâu thẳm của lòng anh tình người trọn vẹn. Cảm ơn anh- người “Anh Cả” của Văn phòng cấp ủy!

Nguyễn Minh Trứ

 Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Tuyên giáo tỉnh uỷ, nguyên Phó Chánh Văn phòng tỉnh ủy

 MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC TÀI CHÍNH-QUẢN TRỊ

     Tháng 6 năm 2000, Ban Tài chính - Quản trị tỉnh ủy giải thể theo chủ trương của Bộ Chính trị sáp nhập vào Văn phòng tỉnh ủy; tôi về công tác tại Văn phòng tỉnh ủy, tiếp tục được phân công phụ trách công tác Tài chính Đảng và Quản trị. Trong suốt thời gian 13 năm thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, tôi đúc kết được một số kinh nghiệm trong công tác tham mưu như sau:

     Về công tác tham mưu quản lý tài chính, tài sản Đảng: Như các đồng chí đã biết, Ninh Thuận là tỉnh còn nhiều khó khăn, do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên không thuận lợi nên kinh tế chậm phát triển, thu ngân sách địa phương còn thấp, việc chi tiêu cho các hoạt động nói chung và hoạt động của khối Đảng gặp nhiều khó khăn. Do vậy, trong phạm vi dự toán được giao hằng năm Văn phòng tỉnh ủy đã chủ động tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong việc lãnh đạo, chỉ đạo cân đối quản lý, điều hành việc chi tiêu theo các khoản kinh phí được cấp sao cho việc chi tiêu trong điều kiện ngân sách có hạn, cần phải tập trung chi có trọng tâm trọng điểm nhằm đảm bảo phục vụ tốt các hoạt động của cấp uỷ.

     Thời gian qua, Văn phòng tỉnh ủy đã tham mưu Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy trong việc quản lý tài chính, tài sản của Đảng đúng quy định, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, không năm nào chi vượt dự toán, hằng năm đều có tích lũy và tiết kiệm trong chi tiêu để bố trí kinh phí mua sắm tài sản, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị làm việc, nâng cấp, sửa chữa phương tiện đi lại phục vụ của các ban Đảng, các Đảng ủy trực thuộc và  các huyện, thành uỷ, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.

     Về công tác Quản trị: Văn phòng tỉnh ủy là cơ quan tham mưu giúp việc trực tiếp cho cấp ủy nhiều lĩnh vực, trong đó bộ phận Quản trị là một trong những bộ phận khá quan trọng góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Công tác Quản trị không được tập huấn, cũng không có tổ chức hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm, có người cho rằng đây là công việc phục vụ đơn thuần về hậu cần, xung quanh vấn đề “cơm, áo, gạo, tiền”. Đành rằng là đơn thuần nhưng theo tôi, công tác Quản trị không đơn giản chút nào, thậm chí còn đòi hỏi tính khoa học rất cao. Do đó, những người làm công tác Quản trị phải chịu cực, chịu khó, nhiệt tình lăn xả, đi sớm về muộn, không ngại khó khăn, cần phải nhạy bén, linh hoạt, phán đoán trước những sự việc có thể xảy ra để phục vụ kịp thời, chu đáo và an toàn trong mọi tình huống. 

     Nếu nghĩ đơn giản mà phục vụ qua loa, trả lễ, không đầu tư suy nghĩ, không nắm bắt được nhu cầu của đối tượng mình phục vụ thì khó đáp ứng và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người làm công tác Quản trị, ngoài việc chăm lo nơi ăn, chỗ nghỉ còn phải có thái độ đón tiếp khách niềm nở, lịch sự, ân cần, quý trọng khách, khi đưa khách đi tham quan các điểm du lịch của địa phương thì người phục vụ phải biết hoàn cảnh lịch sử, tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương đó,…để giới thiệu, quảng bá hình ảnh.

     Như vậy, người làm công tác Văn phòng cấp ủy phải tuyệt đối trung thành, tận tụy, chu đáo với công việc biết giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, đoàn kết thống nhất nội bộ, kiên trì nhẫn nại, chịu khó học hỏi cầu tiến để luôn hoàn thành nhiệm vụ cấp ủy giao. Tôi mong rằng cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của mình; đồng thời ra sức học tập, rèn luyện trau dồi kỷ năng nghiệp vụ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, luôn xứng đáng là cơ quan tham mưu, giúp việc đắc lực cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

 Đôi điều cảm nhận

VỀ NHỮNG NĂM THÁNG ĐƯỢC CÔNG TÁC Ở VĂN PHÒNG TỈNH ỦY

     Tôi viết bài này như một tiếng lòng rung lên khi mái tóc đã pha sương của một đời công chức, sau gần 30 năm làm công tác Văn phòng nói chung và hơn 10 năm công tác ở Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận.

     Nhìn lại những năm tháng làm công tác Văn phòng, từ Văn phòng UBND huyện, Văn phòng huyện ủy, Văn phòng tỉnh ủy, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh; tôi cảm nhận một điều: khi nói đến công tác Văn phòng hoặc được nghe giới thiệu là cán bộ Văn phòng, nhiều người đều nhìn nhận công tác Văn phòng chỉ là những việc giản đơn, đáp ứng những yêu cầu vật chất phục vụ sự hoạt động của cơ quan lãnh đạo, thậm chí có người khái quát bằng bốn từ “Bưng, bê, kê, dọn”. Cũng có người cảm thông, chia sẻ sự vất vả của công việc văn phòng, như “Người làm dâu trăm họ”.

     Sự hiểu biết khác nhau, dù chưa đầy đủ về công tác Văn phòng nhưng rất đáng trân trọng. Đó là công việc rất vất vả; ngoài sự nhạy bén, sáng suốt còn đòi hỏi sự siêng năng, cần cù, tháo vát. Cái khó nhất, cực nhọc nhất là làm sao để thực hiện tốt chức năng tham mưu, thể hiện thông qua những sản phẩm được chọn lọc từ những trải nghiệm của thực tiễn cuộc sống và tư duy tổng hợp có tính khái quat cao. Đó là các báo cáo, các văn bản của cấp ủy ban hành - kết tinh của cả quá trình lao động âm thầm của cơ quan Văn phòng mà ít người biết đến. Ai đã từng làm công tác Văn phòng đều trải qua những lần viết báo cáo, tham gia soạn thảo văn kiện. Để có một bản báo cáo tốt hoặc một văn bản được cơ quan lãnh đạo chấp nhận, đòi hỏi người cán bộ Văn phòng phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phải theo sát tình hình diễn biến của địa phương, cơ sở, để có được những nhận xét và phát hiện đúng, đề xuất được những giải pháp hợp lý đối với những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Để đạt được yêu cầu đó, cùng với những kiến thức tiếp thu qua các trường, lớp; các thế hệ cán bộ Văn phòng đều phải dành thời gian nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước; phải thường xuyên theo dõi qua báo chí, trau dồi thêm hiểu biết, cách viết, hành văn; phải xây dựng được mối quan hệ hài hòa với các ban, ngành, đoàn thể, các địa phương và cơ sở, nhất là những đơn vị được phân công theo dõi. Có thể nói, lao động Văn phòng là một loại lao động sáng tạo, đòi hỏi khổ luyện; biết chịu đựng và hết lòng với công việc.

     Tôi có sự may mắn đã được công tác và làm việc tại Văn phòng tỉnh ủy hơn 10 năm. Có thể nói, đây là môi trường công tác “Uy nghiêm”, niềm kiêu hãnh của bao thế hệ cán bộ cách mạng một lòng đi theo Đảng. Khoảng thời gian đó như một bước đệm, là những kinh nghiệm, bài học quý giá tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt các nhiệm vụ sau này.

     Gần trọn một đời công chức làm công tác Văn phòng, đã xem như là một cơ duyên, từ Văn phòng tỉnh ủy sang Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, nỗi đau đáu về công tác Văn phòng vẫn thường trực trong tôi. Nhìn lại các đồng chí, những người anh em đã từng công tác chung, mái tóc đã pha sương, dấu vết tuổi tác hằn trên khóe mắt, lòng bỗng thấy nghẹn ngào. Ngày đó, chúng ta đã từng trải qua bao nhiêu khó khăn, vẫn miệt mài, tận tụy và thầm lặng, yên tâm mãn nguyện với những gì đã có bằng chính sức lao động sáng tạo, say mê đầy trách nhiệm của mình. 

     Chúng ta tự hào là cán bộ Văn phòng tỉnh ủy, và coi đó là niềm hạnh phúc, được sống và làm việc, được tiếp cận với những thông tin đầu nguồn của Đảng, là điều kiện giúp người cán bộ Văn phòng mở rộng tầm nhìn, có thêm vốn sống và nghị lực để phát triển, trưởng thành, sự trưởng thành bằng chính sức mình, chứ không phải bằng sự che chắn trong quan hệ ứng xử và trong các mối quan hệ đa chiều còn nhiều cám dỗ. 

     Tuy đã được phân công đảm nhiệm nhiệm vụ ở một cơ quan khác, nhưng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Văn phòng tỉnh ủy và Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, lại cho tôi có cơ hội và điều kiện được phối hợp làm việc với những đồng chí, anh em cũ trong điều kiện làm việc của Văn phòng đã được cải thiện và phát triển về mọi mặt. Như một gia đình đông anh em, phát huy tinh thần gương mẫu, đoàn kết, trung thành, tận tụy vốn có, tôi tin rằng tập thể cán bộ Văn phòng tỉnh ủy mãi mãi xứng đáng là cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy; mà trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực tỉnh ủy; đồng thời là Trung tâm thông tin của Tỉnh ủy, góp phần đắc lực vào quá trình xây dựng tỉnh Ninh Thuận ngày càng giàu đẹp, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

     Văn phòng tỉnh ủy, nơi tôi không thể quên - nơi một thời tôi, chúng ta có những kỷ niệm đẹp, đáng trân trọng của cuộc đời công chức. 

Trần Văn Định

 Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, nguyên Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ 

 Đôi điều suy nghĩ về nghề Văn phòng

     Tôi nhận quyết định về công tác tại Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận vào ngày 01-4-1992, ngày hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận chính thức đi vào hoạt động theo Nghị định của Chính phủ. Trước đó, tôi đang là Phó Chánh Văn phòng huyện ủy Phú Quý, tỉnh Thuận Hải.

     Những ngày đầu, lực lượng cán bộ của Văn phòng tỉnh ủy còn rất mỏng: lãnh đạo có chú Nguyễn Trung Hậu- Bí thư tỉnh ủy; Văn phòng có chú Nguyễn Tri Hóa- Chánh Văn phòng. Phòng Quản trị có anh Vượng- Trưởng phòng; tôi; cô Hương- Kế toán; Văn thư, đánh máy có cô Tuyến, cô Lam; lái xe có anh Quốc, anh Cường và Hải (tập sự); Tài chính có Chị Hiệp, chị Xưa, chị Kim Anh; Tổng hợp có anh Ngọc Thanh, anh Võ Chi, anh Mạc; anh Trứ; Cơ yếu có anh Duẩn; phục vụ có chị Tám, chị Liên, cô Lâm Anh (mới tuyển). 

     Sơ lược vài dòng như thế để thấy cái vất vả, thiếu thốn của anh chị em cán bộ, công chức Văn phòng tinh ủy ở “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy”, để đến hôm nay nhìn lại chăng đường đã đi, ôn lại kỷ niệm vui buồn, càng thấy tự hào hơn, yêu mến hơn và không thể quên những con người ngay từ những ngày đầu đã, đang cống hiến tài năng, trí tuệ và cả lòng nhiệt huyết để tô đẹp thêm truyền thống Văn phòng cấp ủy của chúng ta.

     Có người nói: Văn phòng là một nghề, nhưng mà là nghề 3 “Khờ”- nghĩa là Khô - Khó - Khổ.

 

     “Khô” bởi vì công việc không cho phép đùa giỡn, pha trò, tếu táo mà lúc nào cũng phải nghiêm túc.

     “Khổ” là vì lương ba cọc ba đồng, không có thu nhập gì thêm nên khổ là cái chắc.

     “Khó”, đúng là khó thật. Chức năng của Văn phòng là tham mưu và phục vụ, cả hai chức năng này đều có nội hàm vô cùng lớn; tham mưu trên tất cả các lĩnh vực và phục vụ triển khai các nhiệm vụ của cấp ủy. Đây là những công việc không tên, có việc không thể định liệu trước, có khi xảy ra đồng thời phải huy động cả cơ quan vào cuộc... 

     “Khó”, đúng là khó thật. Chức năng của Văn phòng là tham mưu và phục vụ, cả hai chức năng này đều có nội hàm vô cùng lớn; tham mưu trên tất cả các lĩnh vực và phục vụ triển khai các nhiệm vụ của cấp ủy. Đây là những công việc không tên, có việc không thể định liệu trước, có khi xảy ra đồng thời phải huy động cả cơ quan vào cuộc... 

     Bản thân tôi đã có thời gian gần 25 năm công tác ở Văn phòng cấp uỷ huyện và tỉnh; đã kinh qua công tác chuyên môn hành chính, quản trị, tổng hợp và các cương vị lãnh đạo phòng, văn phòng, chi bộ, đảng bộ. Có thể nói đó là khoảng thời gian chưa phải là dài so với một đời người, càng không phải là dài so với truyền thống 84 năm Văn phòng cấp ủy; nhưng cũng đã đủ dài so với thời gian công tác của một công chức và cũng đã mang đến cho tôi biết bao kỷ niệm khó quên. 25 năm với một số công việc khác nhau trong tổng thể công việc của văn phòng, có thể cho là dài nếu chỉ xét theo khía cạnh thời gian; nhưng suy cho cùng thì cũng không thể tự mãn, bởi lẽ ở lâu, ở dài chưa chắc đã là hiểu sâu, hiểu đúng để làm đúng, làm giỏi công việc của mình. Ngẫm lại những gì mình đã làm, đã chứng kiến, bản thân tôi càng thấm thía điều đó. Nhân kỷ niệm ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy, xin được chia sẻ một số suy nghĩ với các đồng nghiệp, nhất là các bạn trẻ đang công tác trong hệ thống Văn phòng cấp ủy xoay quanh chức năng, nhiệm vụ chính của Văn phòng cấp ủy chúng ta:

     Về công tác tham mưu: Đã là cán bộ, công chức thì ai cũng phải thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo. Muốn vậy, bản thân cán bộ, công chức Văn phòng phải không ngừng học tập, rèn luyện về mọi mặt; chủ động nghiên cứu, tìm tòi trên sách, báo các nội dung cần nghiên cứu (theo chuyên đề); sắp xếp thời gian đi cơ sở để năm bắt thực tiễn; đúc rút kinh nghiệm qua các bài tổng kết mô hình thực tiễn; lắng nghe, tích luỹ ý kiến từ các đồng chí lãnh đạo; luôn tự làm mới, không rập khuôn, máy móc; suy nghĩ kỹ trước khi gõ lên bàn phím từng câu, từng chữ; rà soát, gọt dũa trước khi trình văn bản. 

     Đối với công chức trẻ hiện nay, có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận tri thức mới thông qua thế giới mạng; mặt khác với sự hỗ trợ của phương tiện, thiết bị văn phòng hiện đại thì công tác tham mưu càng thuận lợi hơn; song theo tôi đó cũng là con dao hai lưỡi, nếu không cẩn thận sẽ dễ làm cho chúng ta có tư tưởng ỷ lại, đại khái, hời hợt dẫn đến chất lượng tham mưu thấp, mang tính lắp ghép, nội dung chung chung. Công tác tham mưu là nhiệm vụ của tất cả cán bộ, công chức của Văn phòng; vì thế, mỗi cán bộ, công chức Văn phòng đều là mắt xích quan trọng như nhau trong guồng máy hoạt động, không có bộ phận nào quan trọng hơn bộ phận nào.

     Về công tác phục vụ: Là chức năng thứ hai của Văn phòng cấp ủy; nói đến phục vụ, tức là nói đến yếu tố phục tùng; điều đó có nghĩa mọi cán bộ, công chức văn phòng đều phải coi nhiệm vụ của mình trong guồng máy hoạt động, bên cạnh yếu tố tham mưu thì đều gắn với nghĩa phục vụ: Phục vụ ra quyết định, ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo; phục vụ hội họp, đi lại, hoạt động đối nội, đối ngoại... do đó, thành tích của văn phòng bao giờ cũng mang đậm dấu ấn tập thể; đó cũng chính là truyền thống, là môi trường đẹp mà các thế hệ Văn phòng cấp ủy đã xây dựng và không ngừng bồi đắp. Tuy nhiên, đã nói đến phục vụ tức là chấp nhận “làm dâu trăm họ”, không thể làm vừa lòng tất cả mọi người; do đó để làm tốt nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức Văn phòng cấp ủy cũng phải tự rèn luyện cho mình tính kiên nhẫn, cần cù, chịu thương, chịu khó; ‘’luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” suy nghĩ của lãnh đạo để chủ động phục vụ; tránh để sơ xuất dù là sơ xuất nhỏ, đó mới thể hiện tính “chuyên nghiệp” trong phục vụ.

     Một khi hai chức năng đó được thực hiện thông suốt, không có “điểm nghẽn” cũng đồng nghĩa, đội ngũ cán bộ, công chức của văn phòng đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp của nghề. Với cách tiếp cận vấn đề như thế, đồng thời với cái nhìn nghề nghiệp của một người đã từng có thâm niên 25 năm trong nghề, tôi tin rằng, với sự năng động, sáng tạo, nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ, công chức và điều kiện hiện có, Văn phòng tỉnh ủy chắc chắn sẽ thực hiện thắng lợi xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần làm dày thêm truyền thống vẻ vang của Văn phòng cấp ủy.

Lê Đức Khai

Phó Bí thư huyện uỷ Thuận Nam, nguyên Phó Chánh Văn phòng tỉnh ủy 

 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHỐI HỢP THAM MƯU, PHỤC VỤ GIỮA VĂN PHÒNG TỈNH ỦY VỚI VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI-HĐND TỈNH VÀ VĂN PHÒNG UBND TỈNH

     Trong những năm qua, công tác phối hợp giữa Văn phòng Tỉnh ủy với Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội - Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Các văn phòng đã xây dựng mối quan hệ công tác gắn bó và phối hợp thực hiện các nội dung theo Quy chế phối hợp công tác đã được ký kết, đảm bảo tốt công tác tham mưu, phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy, Đoàn đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh. Các văn phòng đã phối hợp tham mưu, đôn đốc xây dựng các báo cáo định kỳ và đột xuất, chuẩn bị các nội dung phục vụ các kỳ họp theo chương trình và các cuộc làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh ủy, Đoàn đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh; phối hợp tốt việc thông tin; phục vụ các chuyến công tác và lễ tân trong các hoạt động đối nội, đối ngoại của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số nội dung, công việc phối hợp tham mưu, phục vụ của 3 Văn phòng chưa đảm bảo yêu cầu về thời gian và chất lượng; việc ứng dụng công nghệ thông tin để phối hợp trao đổi công việc giữa 3 Văn phòng chưa nhiều; các đề tài, sáng kiến kinh nghiệm công tác văn phòng còn rất khiêm tốn.

     Trong thời gian tới, trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác văn phòng, nhất là chuẩn bị tham mưu, phục vụ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và Cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; nhiệm vụ phối hợp tham mưu, phục vụ lãnh đạo của 3 văn phòng sẽ hết sức nặng nề, đòi hỏi 3 văn phòng phải thực hiện thật tốt Quy chế phối hợp công tác đã ký kết.

     Là trung tâm thông tin phục vụ lãnh đạo, do vậy, các Văn phòng phải chủ động nắm thông tin kịp thời, cung cấp thông tin nhiều chiều, nhất là thông tin trao đổi giữa các Văn phòng; phối hợp với các sở, ban ngành, đoàn thể của tỉnh đề xuất, tham mưu các vấn đề mới, có giá trị thực tiễn cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đề ra các quyết định để lãnh đạo, điều hành. Cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác nắm bắt thông tin và công tác phối hợp tham mưu, phục vụ. Những nội dung phối hợp, những công việc cần sự trao đổi, thống nhất giữa các văn phòng, thì thực hiện trao đổi trên thư điện tử để phối hợp tham mưu một cách kịp thời, hiệu quả. Chú trọng hơn nữa công tác tham mưu đổi mới cách tổ chức hội nghị, cách ra nghị quyết, chỉ thị và việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị hiệu quả hơn, chất lượng hơn; dành nhiều thời gian đi cơ sở để chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn cho các đơn vị, địa phương.

     Muốn vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức của 3 Văn phòng cần tiếp tục học tập nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đổi mới tư duy, tác phong làm việc, có phương pháp công tác khoa học, chuyên nghiệp; chủ động phát hiện và đề xuất những vấn đề lớn cho tỉnh; có khả năng tham gia trực tiếp hoặc phối hợp xây dựng, dự thảo các dự án, quy hoạch, nghị quyết quan trọng của tỉnh; phải tuyệt đối trung thành, tận tụy, tỉ mỉ, chu đáo, không ngại khó khăn, gian khổ, đoàn kết, giữ vững nguyên tắc, sáng tạo trong công việc; rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng viết, kỹ năng giao tiếp,... nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ công tác Văn phòng trong tình hình mới. 

     Đối với lãnh đạo 3 Văn phòng cần quan tâm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi nhất để cán bộ, chuyên viên viết và trao đổi những sáng kiến, kinh nghiệm rút ra từ công tác của mình, góp phần nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ. Đồng thời định kỳ tổ chức giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao để tạo sự đoàn kết, thống nhất, chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

     Đối với lãnh đạo 3 Văn phòng cần quan tâm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi nhất để cán bộ, chuyên viên viết và trao đổi những sáng kiến, kinh nghiệm rút ra từ công tác của mình, góp phần nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ. Đồng thời định kỳ tổ chức giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao để tạo sự đoàn kết, thống nhất, chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Lâm Đông

Phó Chánh Văn phòng tỉnh ủy

Gửi Lòng

                        Cao Văn Hóa 

Em đi công tác Phước Bình

Gửi lòng theo gió hồn mình bâng khuâng…

Nắng mai như cũng ngập ngừng

Lộc non biếc mãi trên từng nhành cây.

Có gì giăng mắc quanh đây

Không gian bịn rịn tỏa vây ngọt ngào!

 

Quý làm sao dạ đồng bào

Bao năm cùng một chiến hào đánh Tây.

Bây giờ “Hành Rạc”, “Bạc Rây”

Mấy mùa lúa tốt, xanh cây mượt mà.

 

Đường lên “Tà Lọt” rộng ra

Để cho “bẫy đá” mờ xa bỗng gần.

Cheo leo líu ríu bàn chân

Cầu qua “Tô Hạp” chênh vênh đợi chờ!

 

Tháng năm cùng ở cùng ăn

Xa rồi nỗi nhớ dằn lòng yêu thương!

Tin yêu sắc nắng còn vương

Dòng sông cùng với con đường sóng đôi.

 

Em đi lòng dạ bồi hồi

Nhớ thương chi rứa đất trời nở hoa!

Bao năm tình nghĩa chan hòa

Phước Bình ta đó quê mình đẹp sao.

Ngọt ngào hiền dịu em trao

Để cho ai đó lao xao lòng chiều…

Ninh Thuận, tháng 01 năm 2014

 Chung một trái tim

     Tôi rất vinh dự cùng các đồng chí lãnh đạo văn phòng tham gia biên tập xây dựng bản thảo kỷ yếu Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận. Đọc các bài viết của các chú, các anh và các đồng nghiệp văn phòng dù đã nghỉ hưu hay còn làm việc và chuyển công tác khác đều tựu chung một tấm lòng trong sáng phục vụ cấp ủy, phục vụ nhân dân là niềm hạnh phúc của các thế hệ Văn phòng tỉnh ủy Ninh Thuận, luôn xứ đáng với truyền thống 16 chữ vàng “Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, sáng tạo, tận tụy, chu đáo, giữ vững nguyên tắc”

     Thật vậy, trong không khí những ngày tháng 8 lịch sử của dân tộc, Đảng bộ Văn phòng tỉnh ủy chủ trương xây dựng kỷ yếu Văn phòng, nhằm ghi dấu những chặng đường đã đi qua, tiếp bước vững chắc cho giai đoạn mới. Có thể nói qua các trang viết của các thế hệ Văn phòng tỉnh ủy, tuy thời gian chưa phải là dài nhưng chung một trái tim hồng xây dựng mái ấm Văn phòng. Những gương mặt thân quen rất đỗi tự hào lại hẹn về gặp nhau cùng với vui, buồn một thời chung tay xây dựng và làm việc như: chú Tri Hóa, anh Đức Thanh, anh Bắc Việt, anh Vượng, anh Trứ, anh Định, Anh Đức, ... dù ở cương vị nào, các anh, các chị là những người đi trước nhưng luôn là những đồng nghiệp và là nhưng tấm gương sáng cho thế hệ hôm nay học tập và noi theo. Mái ấm Văn phòng tỉnh ủy luôn là nơi rèn luyện và trưởng thành cả về nhân cách trong sáng, tấm lòng vị tha, tầm nhìn khoa học, luôn khát khao tỏa sáng dù ở cương vị công tác nào, các anh, các chị luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Văn phòng tỉnh ủy, xây dựng quê hương Ninh Thuận giàu đẹp, là điểm đến của tương lai.

     Kế thừa truyền thống tốt đẹp của Văn phòng tỉnh uỷ, với niền tin sắt son chung tay xây dựng, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là việc làm không đơn giản; trái lại có những khó khăn, thách thức đòi hỏi tập thể cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy chẳng những luôn luôn cháy sáng một ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, trung thành vô hạn với lý tưởng của Đảng, một lòng một dạ vì nhân dân, có nghị lực quyết tâm, có lòng say mê, dũng cảm, không sợ gian khổ, khó khăn, nhẫn lại kiên trì, luôn sâu sát, cụ thể và có phương pháp làm việc khoa học; mà còn cố gắng học tập và rèn luyện trang bị cho mình kiến thức cần thiết về mọi mặt; đồng thời biết dựa vào dân, lắng nghe ý kiến nhân dân; đó là quyết tâm chính trị và là mệnh lệnh từ trái tim.

Tạ MinhThao

Phó Chánh Văn phòng tỉnh ủy

 TIẾP TỤC XÂY DỰNG CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ VĂN PHÒNG TỈNH ỦY NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH

     Cùng với quá trình xây dựng, phát triển và trưởng thành của Văn phòng tỉnh uỷ, Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh ủy dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, đã phối hợp có hiệu quả với lãnh đạo cơ quan xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, công chức, người lao động luôn được quan tâm chăm lo, bảo vệ; tập thể lao động đoàn kết, nhất trí cao, đóng góp thành quả thiết thực vào truyền thống tốt đẹp của Văn phòng tỉnh uỷ.

     Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh ủy hiện nay có 40 cán bộ, đoàn viên, trong đó có 19 nữ; có 6 tổ công đoàn trực thuộc. Thời gian qua, được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của Công đoàn viên chức tỉnh, sự lãnh đạo của Đảng uỷ Văn phòng tỉnh uỷ, Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh ủy không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động, đề ra kế hoạch, chương trình cụ thể phù hợp với đặc điểm, tình hình cơ quan; động viên cán bộ, đoàn viên thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Đảng bộ, cơ quan, đoàn thể vững mạnh. 

     Thực hiện quy chế hoạt động, Công đoàn cơ sở luôn phối hợp với lãnh đạo cơ quan kịp thời tổ chức thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, mà trọng tâm là phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”; “Năng suất, chất lượng, hiệu quả”; “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hưởng ứng tích cực các hoạt động xã hội do các ngành các cấp phát động, tham gia ủng hộ các quỹ như “Vì người nghèo”; “Đền ơn đáp nghĩa”; “Quỹ vì Trường Sa thân yêu”; chương trình “Nghĩa tình Trường Sa, Hoàng Sa”… Hằng năm, công đoàn cơ sở chủ trì phối hợp với chi đoàn Thanh niên tổ chức các hoạt động vui chơi cho các cháu thiếu nhi nhân ngày Quốc tế thiếu nhi, Tết trung thu; có chính sách động viên, khuyến khích các cháu có thành tích trong học tập; tổ chức thăm hỏi, động viên kịp thời khi đoàn viên hoặc thân nhân đoàn viên đau ốm hoặc gia đình có tang gia, hiếu hỷ. Điều đó đã làm cho tình cảm giữa các đoàn viên thêm gần gũi, gắn bó. Thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động văn-thể-mỹ sôi nổi, thiết thực nhằm nâng cao đời sống tinh thần, tạo động lực cho cán bộ, đoàn viên công đoàn thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Thường xuyên quan tâm phát hiện, bồi dưỡng những cán bộ, đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Ngoài ra, Ban Chấp hành công đoàn cũng thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đoàn viên, người lao động nghiêm túc thực hiện phòng, chống tham nhũng, lãng phí, kip thời tham gia rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động của cơ quan; quy trình, quy định về quản lý tài sản, mua sắm hàng hóa, công cụ, dụng cụ làm việc; xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế thi đua-khen thưởng; văn hoá công sở, quản lý, sử dụng trụ sở… góp phần xây dựng môi trường làm việc xanh, sạch, đẹp, hiện đại, văn minh. 

     Có thể khẳng định, dưới sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, sự phối tạo điều kiện của lãnh đạo cơ quan, Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh uỷ đã triển khai nhiều hoạt động gắn với thực hiện nhiệm chính trị cơ quan mang lại hiệu quả rõ nét. Cán bộ, đoàn viên công đoàn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành lý tưởng của Đảng, không ngừng rèn luyện, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, đổi mới lề lối làm việc theo hướng khoa học, hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng tham mưu, phục vụ các cấp uỷ Đảng.

     Kết quả nhiều năm qua, Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh uỷ đạt vững mạnh xuất sắc, nhiều tập thể, cá nhân được tặng giấy khen, bằng khen của Công đoàn Viên chức tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh; nhiều năm liền được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Cờ thi đua… góp phần vào thành tích chung của tập thể Văn phòng tỉnh uỷ là được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba năm 2002 và hạng Nhì năm 2010.

    Phát huy những thành tích đạt được của Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh ủy, mỗi cán bộ, đoàn viên công đoàn cần phải tiếp tục rèn luyện phẩm chất đạo đức, giữ vững bản lĩnh chính trị, đoàn kết nhất trí, ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị; chuyên môn; đổi mới tác phong và phương pháp làm việc, chủ động, khoa học…để thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Đảng bộ, cơ quan và Công đoàn cơ sở Văn phòng tỉnh ủy ngày càng vững mạnh. 

Lê Văn Hải

Chủ tịch Công đoàn cơ sở, Phó Chánh Văn phòng tỉnh uỷ 


Cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ tham quan, học tập kinh nghiệm tại các tỉnh miền Tây Nam bộ (tháng 10-2013)

Đ/c Cao Văn Hoá- Bí thư đảng uỷ Văn phòng khen thưởng đảng viên tại hội nghị tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2010

Nữ cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ 

Nam cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ 

Tổ chức giải thể thao nội bộ (tháng 9-2014)

Văn phòng tỉnh uỷ- Trưởng khối thi đua các cơ quan Đảng triển khai nhiệm vụ năm 2014 

Tổ chức vui Tết Trung thu cho các cháu thiếu nhi năm 2014

Cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ tham quan, học tập kinh nghiệm tại Lâm Đồng (tháng 3-2014) 

Cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh ủy nhận Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn phòng cấp ủy năm 2010 

Giao lưu Cụm thi đua khối Đảng năm 2013

Cán bộ, công chức tham gia Hội thi tác nghiệp trên máy tính tại TP. Huế năm 2012

Hoạt động văn nghệ của cán bộ, công chức Văn phòng tỉnh uỷ 



Hệ thống quản lý văn bản điều hành
Hệ thống thông tin tổng hợp
Thống kê truy cập
  • Đang online: 8
  • Hôm nay: 63
  • Trong tuần: 200
  • Tất cả: 185 445
Đăng nhập