
Ảnh minh họa
Xây dựng Đảng về đạo đức nhằm thực hiện mục tiêu độc lập, tự do, hạnh
phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, ở tính hướng đích của xây dựng Đảng
về đạo đức
Mục đích của xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói
riêng chính là xây dựng một tổ chức có vị thế và tư cách lãnh đạo hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu, làm tròn vai trò tiên phong của
Đảng trong lãnh đạo giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải
làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng”(1).
Để thực hiện được đường lối đó, Đảng phải xác định rõ mục đích phục vụ
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích chính đáng của nhân dân và dân tộc mà chiến
đấu. Đảng không có lợi ích riêng, không có lợi ích tự thân. Phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân chính là lý tưởng đạo đức cao đẹp nhất của một đảng cộng
sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng và của toàn thể cán bộ, đảng
viên của Đảng.
Thời kỳ lãnh đạo cách mạng khi chưa giành được chính quyền, xây dựng Đảng
về đạo đức là xây dựng nền gốc, nhằm thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng, là yêu
cầu trước hết, tạo thành sức mạnh nội sinh to lớn. Đạo đức là yếu tố làm nên sức
mạnh của Đảng, tạo ra sự hấp dẫn của Đảng đối với nhân dân. Nếu thiếu đạo
đức, Đảng sẽ không quy tụ và tập hợp được nhân dân và do đó, cũng không thể đủ
khả năng để lãnh đạo cách mạng, dẫn dắt dân tộc tiến hành cách mạng. Hồ
Chí Minh khẳng định, “muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã
hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”(2).

Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng bước sang thời kỳ mới nhằm xây dựng
Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân tự do, ấm no, hạnh phúc, tức là Đảng đứng trước một
bước chuyển biến mới, đòi hỏi phải giải quyết các mâu thuẫn cơ bản một cách sâu
sắc, toàn diện và triệt để, khi ấy tất yếu phải tiến hành những biện pháp để xốc
lại đội ngũ, chấn chỉnh lực lượng, gia tăng sức mạnh của Đảng. Hồ Chí Minh cũng
chỉ ra rằng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội để bảo vệ độc lập dân tộc, vì
tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng, tiềm lực trí tuệ, bản lĩnh của Đảng có đáp ứng các
yêu cầu, nhiệm vụ, có khả năng giải quyết những vấn đề mới và khó được hay
không phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của Đảng.
Mặt khác, đối với một đảng chính trị, niềm tin của nhân dân là
cơ sở quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ trong nhân
dân, do nhân dân xây dựng, ủng hộ, giúp đỡ và bảo vệ. Đảng mạnh từ cội nguồn
sức mạnh của lòng dân, ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Nếu không có
nhân dân giúp sức thì Đảng không làm tròn được sứ mệnh của mình. Xây dựng
Đảng về đạo đức là điều kiện để gây dựng niềm tin, củng cố mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa Đảng với nhân dân. Tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân
dân, Đảng sẽ chống được các căn bệnh: xa dân, khinh dân, sợ dân, không tin dân,
không hiểu biết dân, không yêu thương nhân dân. Đó là nguyên nhân của căn bệnh
quan liêu mệnh lệnh, xa rời nhân dân và sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”. Bản
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời tự nguyện phục vụ nhân dân, vâng mệnh lệnh của
quốc dân ra trước mặt trận để gánh vác các nhiệm vụ mà nhân dân ủy thác.
Thứ hai, ở các quy tắc và chuẩn mực đạo đức của tổ chức Đảng
Đảng là một tổ chức thống nhất, một khối đoàn kết và thống nhất để lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Mỗi đảng viên là một hợp phần làm thành tổ chức
chung của Đảng. Hình ảnh đạo đức của mỗi đảng viên cũng là một hợp phần trong
hình ảnh đạo đức chung của toàn Đảng. Đạo đức của toàn Đảng được biểu hiện
cụ thể bằng đạo đức của đảng viên. Do đó, xây dựng đạo đức của tổ chức Đảng trước
hết phải quan tâm xây dựng quy tắc và chuẩn mực đạo đức của tổ chức Đảng.
Trong xây dựng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định xây dựng phẩm chất tuyệt đối trung thành,
kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước
và nhân dân lên trên hết, trước hết. Như vậy, bảo vệ độc lập, tự do, hạnh
phúc của nhân dân chính là một nội dung trong tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu
của người cán bộ, đảng viên.
|
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí
Minh bàn về vấn đề xây dựng đạo đức của tổ chức đảng với cách tiếp
cận về “tiêu chí của một đảng chân chính cách mạng”, gồm 12 điều, trong đó có
quy tắc, chuẩn mực đạo đức quan trọng đó là vì độc lập, tự do và hạnh phúc của
nhân dân. Điều đó được thể hiện cụ thể ở những điểm sau:
Trong đường lối chính trị. Đường lối chính trị đúng đắn và mang tính đạo đức của Đảng phải dựa
trên học thuyết Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước
ta, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của
thời đại. Đường lối đó được xác định là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, đó là điểm căn cốt, là vấn đề then chốt chi phối mọi tư tưởng và hành động
của Hồ Chí Minh, cũng chính là tôn chỉ, mục đích của Đảng. Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, chính vì vậy, Đảng đại biểu trung thành cho lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Đảng khởi xướng,
lãnh đạo và tổ chức thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới
giàu mạnh, văn minh. Đó là một sứ mệnh vẻ vang, là một sự nghiệp nhân văn, cao
cả, nhưng cũng là một trọng trách dân tộc ủy thác cho Đảng. Do đó, Đảng phải hội
tụ những giá trị tinh hoa của dân tộc và thời đại, trong đó trước hết là đạo đức.

Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập chuyên đề toàn khóa về
"Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" nhiệm
kỳ Đại hội XIII của Đảng, chuyên đề năm 2021.
Trong xây dựng và củng cố nền tảng lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đây là học thuyết chân chính nhất, là vũ khí tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng, giúp trang bị quan điểm và phương pháp đúng đắn để nhận
thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của xã hội. Không những thế, chủ
nghĩa Mác - Lênin còn là học thuyết vì con người, hướng đến giải
phóng con người toàn diện, triệt để. Đó cũng chính là lý tưởng đạo đức cao đẹp
nhất. Lý luận đó nuôi dưỡng con người có ý thức tôn trọng và phục tùng lợi ích
của tập thể; hướng tới những giá trị tốt đẹp, xây dựng con người và đạo đức mới
xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, đứng trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và cán bộ, đảng viên có bản lĩnh đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, vụ lợi, thay vào đó là hình thành, củng cố, thúc đẩy mỗi
cá nhân thực hiện những hành vi đạo đức tích cực, tạo ra những giá trị có ích
cho cộng đồng và xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”(3). Do
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân, thì
các tổ chức đảng và cán bộ đảng viên phải thấm nhuần lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng cũng như trong hành động.
Trong mối quan hệ của Đảng với nhân dân. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, lãnh đạo tức là
phục vụ nhân dân. Trên tất cả là Đảng phải làm tròn nhiệm vụ là người lãnh đạo,
là công bộc, làm đày tớ cho nhân dân. Trong 12 điều của đảng cách mạng chân
chính, nói về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Người đã nêu lên 3 nội
dung: Đảng phải phát huy vai trò của nhân dân, “Phải
luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị”. Đảng phải
chăm lo lợi ích của nhân dân, phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của
Đảng, mọi công tác luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Và Đảng phải
xây dựng niềm tin của nhân dân, “phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và
những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết
và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân
đối với Đảng”.
Thứ ba, trong các quy tắc và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên
Trong xây dựng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định xây dựng phẩm chất tuyệt đối trung thành, kiên
định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước và
nhân dân lên trên hết, trước hết. Như vậy, bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc của
nhân dân chính là một nội dung trong tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu của người
cán bộ, đảng viên.
Trong tác phẩm Cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của người
cách mạng (1949), phẩm chất này được Hồ Chí Minh gọi đó là “Đảng tính”.
Người viết: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của
Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi
ích của cá nhân phải để lại sau. Đó là nguyên tắc tối cao của Đảng. Mỗi một đảng
viên phải ghi chắc điều đó. Chúng ta gọi nó là Đảng tính”(4). Người
đảng viên ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, không có lợi ích gì khác. Người
giải thích, lợi ích của Đảng và lợi ích của dân tộc là thống nhất, trong lợi
ích của dân tộc có lợi ích của Đảng. Người đảng viên trước tiên phải tuyệt đối
trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “tận
trung với nước, tận hiếu với dân”. Trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, phải
luôn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân phải phục
tùng lợi ích của Đảng, lợi ích bộ phận phải phục tùng lợi ích toàn cục, lợi ích
tạm thời phải phục tùng lợi ích lâu dài.
Trong mối quan hệ lợi ích đó, Hồ Chí Minh yêu cầu, nếu lợi ích chung của
Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải hy sinh lợi ích cá nhân
cho lợi ích của Đảng, thậm chí kể cả tính mệnh. Nếu lợi ích cá nhân phù hợp với
lợi ích của Đảng thì đó là lợi ích chính đáng. Người giải thích, đảng viên và
cán bộ phải luôn ý thức rằng, chỉ có hết lòng vì Tổ quốc, vì nhân dân, thì mới
được nhân dân tin yêu, mới giữ được vai trò lãnh đạo và mới thực hiện được sứ mệnh.
Trong thực tế lịch sử, biết bao thế hệ đảng viên và cán bộ một lòng
đi theo Đảng, hy sinh xương máu, tính mạng vì lợi ích của Đảng và lợi ích của
dân tộc. Họ được nhân dân cảm phục, trân trọng, được nhân dân tin tưởng, tin
yêu, tự nguyện noi theo, đi theo, tự nguyện thừa nhận vai trò lãnh đạo của đảng
viên và tổ chức đảng.
Trong bài Đạo đức cách mạng, “Quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng” được Hồ Chí Minh xác định là “điều chủ
chốt nhất”, là “tiêu chuẩn số một”(5) của người cách mạng. Người
đảng viên khi đã tự nguyện vào Đảng là tự nguyện cống hiến, tự nguyện hy sinh
và phải nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình đó là quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng; tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng
của Đảng và dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nếu
không xác định được mục tiêu, xây dựng được ý chí quyết tâm đó sẽ khó giữ được
bản lĩnh chính trị trước những khó khăn hay những cám dỗ trong cuộc sống thường
ngày.
Thứ tư, phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân trong xây
dựng Đảng về đạo đức
Để Đảng có thể thực hiện mục tiêu độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân
dân thì Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn trong sạch, vững mạnh, đi đúng đướng
lối cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân trong xây dựng Đảng
nói chung, xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng
hộ Đảng, hưởng ứng những lời kêu gọi của Đảng, giúp Đảng nắm rõ
tình hình trong nhân dân, đối với công tác của Đảng thì thật thà phê bình và
nêu ý kiến của mình. Người khẳng định, tự phê bình và phê bình trong Đảng
là cần, nhưng cần hơn là tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê
bình mình. “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm
cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân
chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa.
Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(6).
Nhân dân là một bộ phận quan trọng trong việc xây dựng, bổ sung và phát
triển những chuẩn mực đạo đức để Đảng thích ứng với những thay đổi của thực tiễn
trong quá trình lãnh đạo. Nhân dân cũng có vai trò quan trọng trong việc
kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý những vi phạm đạo đức của tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với việc xây dựng Đảng về đạo đức, việc tu
dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt
dưới sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của người dân.
Muốn công tác xây dựng Đảng về đạo đức đạt được hiệu quả cao, Hồ Chí
Minh cho rằng, cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân về vị
trí, vai trò của họ trong việc xây dựng Đảng về đạo đức: “Chúng ta phải phát
động tư tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tội tham ô,
lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần
chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô,
lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp” .
Trên cương vị người lãnh đạo Đảng, Hồ Chí Minh quán triệt
nguyên tắc: Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không
được lên mặt “quan cách mạng”, ra lệnh, ra oai với nhân dân. Mọi chủ
trương, đường lối thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
đều được Người xem xét và giải quyết từ vị thế và vai trò của người dân đó là
nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Để người dân được hưởng quyền
dân chủ trong thực tế và thực hiện quyền làm chủ của mình, góp phần tích cực
vào công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng, Hồ
Chí Minh cho rằng, cần phải hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, tạo cơ chế để người
dân nói tiếng nói của mình, đồng thời, nâng cao năng lực làm chủ của nhân
dân, nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính
tích cực, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; khuyến
khích nhân dân giám sát công việc của các cơ quan nhà nước.
Thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình, tiếp thu ý kiến trước nhân
dân. Tự phê bình và phê bình là “vũ khí sắc bén”, góp phần phát hiện sớm những
biểu hiện của nghĩa cá nhân, những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên để
kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa. Theo Hồ Chí Minh, phê bình và tự phê bình
không chỉ được tiến hành trong nội bộ Đảng, giữa những người đồng chí với nhau
mà quan trọng hơn cả đó là phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong tự phê
bình và phê bình. Người viết: “Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần
chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự
phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần
chúng bỏ rơi”(7). Trong rèn luyện phẩm cách cán bộ, đảng viên, nên để cho dân
chúng phê bình, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ thì nhất định không xảy
ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Coi trọng nhân dân
cũng để chống thói hư, tất xấu của cán bộ, đảng viên.
Có thể nói, xây dựng Đảng về đạo đức nhằm thực hiện mục tiêu độc lập,
tự do và hạnh phúc cho nhân dân trở thành nét đẹp văn hóa, tạo nên
sự hấp dẫn, sức sống lâu bền, sức mạnh nội sinh của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Bài học này có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng trong mọi
giai đoạn.
Nhân dân là một bộ phận quan trọng trong việc xây dựng, bổ sung và
phát triển những chuẩn mực đạo đức để Đảng thích ứng với những thay đổi của
thực tiễn trong quá trình lãnh đạo. Nhân dân cũng có vai trò quan trọng
trong việc kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý những vi phạm đạo đức của tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với việc xây dựng Đảng về đạo đức, việc tu
dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải
đặt dưới sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của người dân.
|
TS. Trần Thị Hợi
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
----------------------
(1) (2) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
H, 2011, t.5, tr.289, 292 - 293, 337.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 668.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 290.
(5) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr.603, 609.