Cách đây 65 năm, trước đòi hỏi của thực tiễn
cách mạng, đường Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) đã ra đời, góp phần quan
trọng vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là dấu lịch sử đặc
biệt, mang tầm chiến lược của Đảng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Bước sang năm 1959,
cách mạng miền Nam đứng trước một bước ngoặt, đòi hỏi Đảng ta phải có quyết
sách kịp thời. Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã đề ra nhiệm vụ
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam là giải phóng miền Nam. Thực hiện Nghị quyết của Đảng về nhiệm vụ
chi viện cho miền Nam, việc nhanh chóng mở đường vận chuyển chi viện chiến lược
cho các chiến trường trở thành một nhiệm vụ hết sức cấp bách của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta.
Sau một thời gian
gấp rút chuẩn bị, ngày 19-5-1959 Thường trực Tổng Quân ủy chính thức giao nhiệm
vụ cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” làm nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng
quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa đón bộ đội, chuyển công văn, tài liệu từ miền
Bắc vào miền Nam và ngược lại. Năm 1959, Đoàn có nhiệm vụ soi đường, bảo đảm
giao thông liên lạc từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển vũ khí và bảo đảm đưa
500 cán bộ trung cấp, sơ cấp hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng
lực lượng chủ lực. Vì ra đời tháng 5-1959, Đoàn mang phiên hiệu Đoàn 559, và
con đường được mở đúng ngày sinh của Bác, nên được mang tên đường Hồ Chí Minh.
Từ đó, ngày 19-5 cũng trở thành Ngày truyền thống Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn
– đường Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 6-1959,
Đoàn 559 tổ chức đội khảo sát mở tuyến vào Nam bắt đầu từ Khe Hó (nằm giữa một
thung lũng ở tây nam Vĩnh Linh), sau đó vạch tuyến phát triển về hướng Tây Nam,
điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Khu 5. Con đường
này phải vượt qua nhiều dãy núi cao hiểm trở, khí hậu vô cùng khắc nghiệt, để
bảo đảm tuyệt đối bí mật, khẩu hiệu hành động của Đoàn là: “Ở không nhà,
đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, phải chủ động tránh địch và
tuyệt đối giữ bí mật.
Ngày 13-8-1959
chuyến hàng đầu tiên chính thức vượt Trường Sơn. Sau 8 ngày đêm vượt qua bao
sông sâu, suối dữ, đèo cao và hệ thống đồn bốt chốt chặt của địch, ngày
20-8-1959, chuyến hàng đầu tiên trên tuyến đường gùi được bàn giao cho chiến
trường Trị Thiên tại Tà Riệp gồm 20 khẩu tiểu liên, 20 khẩu súng trường, 10
thùng đạn tiểu liên và đạn súng trường. Chuyến hàng đầu tiên tuy ít ỏi, song đã
làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ Khu 5, thể hiện quyết tâm của Đảng và tình cảm
của Bác Hồ, của quân, dân miền Bắc gửi tới đồng bào, chiến sĩ miền Nam.
Ở miền Nam, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong
trào cách mạng đã có bước phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị
chủ trương đẩy mạnh hoạt động chi viện cho chiến trường. Vị trí, vai trò của
Đoàn 559 ngày càng quan trọng, nhiệm vụ của Đoàn ngày càng nặng nề. Trong khi
đó, địch ngày càng tăng cường lùng sục, đánh phá ác liệt hơn. Ngày 1/9/1960,
Hội nghị Ban cán sự Đoàn 559 ra nghị quyết nêu rõ: “Phải quyết tâm tự lực
cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ, đồng thời tiếp tục soi đường mới để
làm đường dự bị”.
Trong khi tuyến
giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc được mở dọc theo dãy Trường Sơn tiến dần
vào phía Nam thì ở Trung Bộ, các con đường giao liên được mở tiếp vào các khu
căn cứ Tây Nguyên và từ miền Đông Nam Bộ các đội vũ trang tuyên truyền cũng
tiến hành soi đường ra Bắc. Đến cuối năm 1960, ta đã thiết lập được tuyến giao
liên vận tải từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên quân sự Trường
Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa miền Bắc với các căn cứ miền Nam. Trong mùa
khô 1960 – 1961, Đoàn 559 đã vận chuyển giao cho chiến trường được 30 tấn vũ
khí, bảo đảm lương thực cho gần 2.000 cán bộ vào chiến trường, có chân hàng dự
trữ cho các đợt vận chuyển tiếp theo.
Ngày 31-1-1961, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961-1965) và phương hướng,
nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Trong đó có nhiệm vụ: Mở rộng đường
hành lang vận chuyển Bắc – Nam, cả đường bộ và đường biển, nâng dần quy mô và
khối lượng tiếp tế vận chuyển phương tiện vũ khí, cung cấp tài chính từ miền
Bắc vào miền Nam. Trước tình hình địch đánh phá ngày càng ác liệt, Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhất trí với đề nghị của ta mở tuyến đường vận tải
trên đất bạn, đồng thời cũng đề nghị dùng đường đó để vận chuyển một số nhu cầu
thiết yếu của bạn tới Nam Lào, cùng bạn mở rộng vùng giải phóng ở khu vực này.
Ngày 14-6-1961, Đoàn 559 chính thức bước vào hoạt động trên tuyến Tây Trường
Sơn.
Ngày 23-10-1961, Bộ
Quốc phòng ra Quyết định số 96/QP phát triển Đoàn 559 tương đương cấp sư đoàn.
Không chỉ phát triển về số lượng, Đoàn 559 đã có bước phát triển quan trọng về
chất lượng, các chiến sĩ Trường Sơn vừa là người lính vận tải, vừa là chiến sĩ
bộ binh, công binh, vừa công tác, vừa chiến đấu. Đến cuối năm 1964, bộ đội
tuyến 559 cùng các đơn vị vũ trang, thanh niên xung phong và giao thông Quân
khu 4 đã xây dựng được tuyến hành lang vận tải gồm nhiều trục đường gùi thồ và
một trục đường cơ giới ở Tây Trường Sơn.
Từ khi ra đời
cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng, đường Hồ
Chí Minh không ngừng được mở rộng, kéo dài, ngày càng phát triển, vươn sâu tới
các chiến trường, các hướng chiến lược, chiến dịch. Đến cuối cuộc kháng
chiến chống Mỹ, đường Hồ Chí Minh đã mở rộng, vươn dài tới Lộc Ninh (Bình
Phước) với tổng chiều dài gần 17.000km đường cho xe cơ giới (gồm 5 trục dọc, 21
trục ngang); đường giao liên dài trên 3.000km; đường ống dẫn xăng dầu gần
1.400km; cùng với hệ thống đường vòng tránh, đường sông, đường thông tin liên lạc.
Trên mọi nẻo đường, hệ thống cung trạm, binh trạm, kho tàng, bến bãi, trạm bảo
dưỡng sửa chữa xe máy... được xây dựng trong một thế trận ngày càng hoàn chỉnh,
đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường.
I. Những
đóng góp nổi bật của đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế vẻ vang
1. Đường Hồ Chí Minh là tuyến vận tải quân sự chiến lược, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho các chiến trường
Hệ thống đường Hồ Chí Minh vượt
Trường Sơn ngày càng hoàn chỉnh, sức người, sức của đưa vào chiến trường miền
Nam ngày càng tăng. Tính trong 6 tháng cuối năm 1959 (khi đường Hồ Chí Minh mới
hình thành), với phương thức gùi bộ là chủ yếu, Đoàn 559 mới vận chuyển được 32
tấn vũ khí giao cho Khu 5, thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968, lượng hàng đưa đến các chiến trường là hơn 27.900 tấn, cùng hàng vạn
cán bộ, chiến sĩ, đơn vị kỹ thuật cung cấp cho các mặt trận. Khi ta mở cuộc tiến
công chiến lược năm 1972, lượng hàng vận chuyển tới các chiến trường lên tới
66.500 tấn. Đặc biệt, trong hai năm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975, lượng hàng đã giao cho các chiến trường hơn 410.000 tấn. Tính
chung trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ đội Trường Sơn, qua
tuyến đường Hồ Chí Minh đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường trên 1,5
triệu tấn hàng hóa và 5,5 triệu tấn xăng dầu.
Cùng với vận chuyển hàng quân sự,
trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, tuyến giao thông vận tải Trường Sơn đã
bảo đảm cho hơn 1,1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ đi vào chiến trường
miền Nam và các hướng mặt trận lớn, đưa hơn 650.000 lượt cán bộ, chiến
sĩ từ các chiến trường về hậu phương miền Bắc, trong đó có gần 310.000 thương
binh, bệnh binh. Không chỉ là tuyến vận chuyển sức người và hàng hóa từ hậu
phương ra tiền tuyến, Trường Sơn còn có một vị trí chiến lược quan trọng như là
“xương sống” ở bán đảo Đông Dương, là nơi “đứng chân” của các binh đoàn chủ lực
và các đơn vị binh chủng, kỹ thuật; là vùng hậu phương trực tiếp của các chiến
trường, là bàn đạp xuất kích đã được chuẩn bị sẵn cho các binh đoàn chủ lực tiến
công ra các hướng chiến dịch, chiến lược quan trọng.
Trong suốt 16 năm, Đường Trường Sơn -
Đường Hồ Chí Minh và Bộ đội Trường Sơn đã phát huy vai trò to lớn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ chi viện từ hậu phương lớn cho các chiến trường miền Nam Việt
Nam, Lào và Campuchia, góp phần to lớn làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân năm 1968, cuộc Tiến công chiến lược năm 1972, Chiến thắng Đường 9
- Nam Lào. Đặc biệt, từ năm 1973 đến 1975, Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực vượt bậc,
ra sức xây dựng, tu sửa, nâng cao chất lượng cầu đường đáp ứng yêu cầu của thời
cơ chiến lược mới trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chấp hành
nghiêm mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh, quán triệt phương châm “Thần tốc,
táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng tổ chức vận
chuyển từng binh đoàn chủ lực lớn của quân đội ta, đưa một khối lượng cơ sở vật
chất kỹ thuật lớn tới chiến trường miền Nam; luôn bám sát các mũi tiến công của
bộ binh, vừa tháo gỡ bom mìn, vừa nhanh chóng sửa chữa, bắc lại cầu mới cho
quân ta tiến vào giải phóng các thành phố, thị xã và giải phóng Sài Gòn trong
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
2. Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, chiến trường tổng hợp trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó, Bộ đội Trường Sơn là lực lượng
nòng cốt
Để đánh bại âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện thắng lợi phương châm “Đánh địch mà đi, mở đường
mà tiến”, quân, dân ta trên Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh luôn gắn liền
vận chuyển với chiến đấu, chiến đấu là điều kiện tiên quyết để vận chuyển thắng
lợi. Trên từng cung đường, mỗi chiến công của nhiệm vụ vận tải luôn đi cùng với
những thành tích đánh địch bảo vệ đường, kho, trạm. Các lực lượng ta ở Trường
Sơn còn tích cực, chủ động thực hiện nhiều chiến dịch lớn, đập tan chiến lược
“chiến tranh ngăn chặn” của đế quốc Mỹ.
Bộ đội Trường Sơn từ một đơn vị
nhỏ bé ban đầu đã trưởng thành nhanh chóng, bao gồm đủ các lực lượng: công
binh, vận tải (ô tô, đường sông, đường ống), phòng không - không quân, bộ binh,
giao liên, thông tin, hóa học, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… thực
sự trở thành một chiến trường tổng hợp, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng
trên quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường. Với
tinh thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Máu có thể đổ, đường
không thể tắc”, bộ đội và dân công hỏa tuyến Trường Sơn đã bảo đảm giao thông
thông suốt trong mọi tình huống.
Trên mặt trận Trường Sơn, các lực
lượng, các quân, binh chủng, nòng cốt là Bộ đội Trường Sơn đã trực tiếp tổ chức
thế trận đánh địch tại chỗ, bên cạnh đó Bộ đội Trường Sơn còn phối hợp với bộ đội
chủ lực trên các chiến trường thực hiện nhiều chiến dịch lớn làm thất bại kế hoạch
“ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc” của đế quốc Mỹ, giữ vững tuyến vận tải huyết
mạch, đáp ứng yêu cầu chi viện ngày càng tăng của tiền tuyến miền Nam, chiến
trường Lào, Campuchia.
Trong 16 năm, các lực lượng trên
tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã chiến đấu trên 2.500 trận, diệt gần
17.000 tên địch, bắt 1.200 tên, gọi hàng trên 10.000 tên, bắn rơi 2.455 máy bay
địch, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của địch. Để
giành thắng lợi vẻ vang đó, hơn 2 vạn cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong
đã hy sinh, gần 3 vạn người bị thương, hàng nghìn người bị ảnh hưởng nặng nề chất
độc màu da cam của địch. Biết bao bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa
tuyến, đồng bào các dân tộc đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình để giữ vững
mạch máu giao thông trên con đường huyền thoại này.
3. Đường Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu
đặc biệt chống kẻ thù chung của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia và sự ủng hộ,
giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế
Đường Hồ Chí Minh ra đời và
phát triển, trước hết bắt nguồn từ nhu cầu của cách mạng Việt Nam. Trong quá
trình đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn Đông Dương, đường Trường Sơn
đã không ngừng được củng cố, mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng
của ba nước Đông Dương. Quân và dân ba nước đã nêu cao tinh thần đoàn kết chiến
đấu chống kẻ thù chung, xây dựng và bảo vệ tuyến đường chi viện chiến lược.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn, tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam (cả
Đông và Tây Trường Sơn) đã đi qua 20 tỉnh thuộc ba nước Đông Dương, bảo đảm vận
chuyển nhiều đơn vị bộ đội chủ lực và số lượng lớn vật chất cho các chiến trường;
là sợi dây liên kết các chiến trường, là “khúc ruột” nối với các tuyến vận tải
của hậu phương lớn miền Bắc và các tuyến vận tải của các chiến trường ba nước
Đông Dương, tạo nên một hệ thống liên hoàn bền vững. Nhân dân các dân tộc Việt
Nam, Lào và Campuchia trên tuyến đường hành lang đi qua đã tự nguyện dời bản,
chuyển nhà, góp phần xây dựng, bảo vệ con đường trong suốt những năm chiến
tranh. Nhờ đó, tình đoàn kết quân dân ba nước thêm gắn bó.
Không chỉ là
tuyến hậu cần chiến lược, là hậu phương trực tiếp, căn cứ của chiến trường miền
Nam Việt Nam, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn còn đảm bảo chi viện đắc lực
cho chiến trường Lào và Campuchia, tiêu biểu là:
- Từ năm 1959 đến năm
1964, tuyến vận tải chiến lược đã bảo đảm vận chuyển hàng và tổ chức hành quân
cho các đơn vị vào chiến trường miền Nam và Lào được 10.136 tấn vũ khí, trang bị
kỹ thuật, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cùng hàng nghìn tấn hàng quân sự của các nước
xã hội chủ nghĩa viện trợ cho cách mạng Việt Nam, Lào...
- Năm 1970, tuyến vận tải
chiến lược đã vận chuyển trên 5.000 tấn vũ khí, đạn dược phục vụ kịp thời cho lực
lượng cách mạng Campuchia phối hợp với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đập
tan cuộc hành quân Chen-la 1 của Mỹ - Thiệu - Lon Non.
- Trong hai năm 1973 -
1974, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã vận chuyển chi viện chiến trường
miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia một khối lượng vật chất gấp 3,8 lần giai đoạn
1969 - 1972, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam, Lào và Campuchia
tiến lên giành thắng lợi quyết định vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
Như vậy, đường Hồ Chí Minh không
chỉ là biểu hiện ý chí sắt đá, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, mà còn là biểu tượng sáng ngời của tình
đoàn kết chiến đấu đặc biệt cùng chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt
Nam - Lào - Campuchia và bạn bè quốc tế.
4. Đường Hồ Chí Minh và hoạt động tác chiến, mở đường của Bộ đội Trường
Sơn đã góp phần quan trọng cho sự phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt
Nam độc đáo, sáng tạo
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có nhiều sáng tạo; trong đó việc mở đường Hồ Chí Minh là một sáng tạo chiến lược
độc đáo của Đảng ta. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
một tuyến đường vận tải chiến lược được xây dựng hoàn chỉnh để chi viện cho chiến
trường với sự đa dạng về thành phần lực lượng và hoạt động tác chiến. Cùng với
sự phát triển liên tục của công tác vận tải chi viện cho chiến trường, nghệ thuật
quân sự trên chiến trường Trường Sơn luôn có sự sáng tạo và phát triển.
Việc tổ chức, xây dựng lực lượng
và kết hợp các phương thức đấu tranh, phương thức vận chuyển trên Đường Trường
Sơn là một thành công lớn trong chỉ đạo chiến lược, bước phát triển độc đáo
trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Đó là nghệ thuật tổ chức lực lượng, tổ chức
thế trận, tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, điều hành, tổ chức mạng đường và
hệ thống binh trạm, cung trạm, kho tàng, bến bãi; nghệ thuật đánh địch, mở đường,
bảo đảm hành quân, bảo đảm giao thông, bảo đảm vận chuyển... Đó là sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối chính trị, quân sự và khoa học, nghệ thuật
quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam để giải quyết thành công một loạt vấn đề
rất mới thuộc về vận tải chiến lược trong chiến tranh của Quân đội ta thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Trường Sơn - Đường Hồ Chí
Minh. Đồng thời, đó là nghệ thuật tiến hành công tác đảng, công tác chính trị để
xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng, phát huy cao độ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh để làm nên những kỳ
tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần cùng toàn dân, toàn
quân giành thắng lợi vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
II. Phát huy kỳ tích của đường Hồ Chí Minh, truyền thống bộ đội Trường
sơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
1. Xây dựng đường Hồ Chí Minh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Đường Hồ Chí Minh nằm ở phía Tây
đất nước, có vị trí quốc phòng và an ninh quan trọng, có sự đa dạng về điều kiện
tự nhiên và tài nguyên đất, rừng và các khu bảo tồn thiên nhiên, khoáng sản. Xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết cần có một tuyến đường hoàn chỉnh, thống nhất, xuyên
suốt nhằm đáp ứng cho hoạt động phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ năm 1996, Chính phủ đã giao Bộ Giao thông
vận tải nghiên cứu quy hoạch tuyến đường để hình thành trục dọc đường bộ thứ
hai ở phía Tây đất nước với tên gọi ban đầu là Xa lộ Bắc Nam (nay là đường Hồ
Chí Minh).
Ngày 1/4/1997, Chính phủ đã có Quyết định
số 195/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về công trình Xa lộ Bắc
Nam. Trên cơ sở nghiên cứu và đề xuất của Bộ Giao thông vận tải, ý kiến của Hội
đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư và báo cáo kết luận của Ban chỉ đạo
Nhà nước về công trình Xa lộ Bắc Nam, ngày 24/9/1997, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 789/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể Xa lộ Bắc Nam với điểm đầu
tại Hoà Lạc (Hà Tây, nay là Hà Nội), điểm cuối tại ngã tư Bình Phước (Thành phố
Hồ Chí Minh), tổng chiều dài xấp xỉ 1.800km, cơ bản bám theo hướng tuyến của
các quốc lộ 21A, 15A, 15B, 14 và 13. Đồng thời, Chính phủ đã giao cho Bộ Giao
thông vận tải phối hợp với Bộ Quốc phòng nghiên cứu nhánh phía Tây từ Khe Gát
(Quảng Bình) đến Thạnh Mỹ (Quảng Nam).
Ngày 3/12/2004, Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 38/2004/QH11 về chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh
là công trình trọng điểm quốc gia với tổng chiều dài toàn tuyến là 3.167km
(trong đó tuyến chính dài 2.667km, tuyến nhánh phía Tây dài 500km); điểm đầu là
Pác Bó (tỉnh Cao Bằng), điểm cuối là Đất Mũi (tỉnh Cà Mau). Căn cứ vào Nghị quyết
của Quốc hội, xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, ngày 15/2/2007,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 242/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể
đường Hồ Chí Minh.
Ngày 5/4/2000, tại bến phà Xuân Sơn, huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình, Thủ tướng Chính phủ đã phát lệnh khởi công xây dựng; đến
ngày 21/3/2008, Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng đã tiến
hành nghiệm thu chất lượng công trình xây dựng đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1
(đoạn từ Thạch Quảng tới Ngọc Hồi).
Không phải đến khi
nghiệm thu cấp Nhà nước, đường Hồ Chí Minh mới được đưa vào khai thác, mà ngay
từ năm 2003, rất nhiều tuyến trên đường Hồ Chí Minh sau khi nghiệm thu cơ sở đã
phát huy hiệu quả, tạo ra diện mạo mới cho nhiều vùng quê từ Đông Trường Sơn
sang Tây Trường Sơn và từ Bắc chí Nam. Đối với các tỉnh Tây Nguyên, đường Hồ
Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả về kinh tế, xã hội và quốc phòng, an
ninh. Đường Hồ Chí Minh trở thành trục giao thông chính, nối thông phía Bắc Tây
Nguyên với các tỉnh miền Trung và liên thông sang nước bạn Lào và Campuchia.
Đường Hồ Chí Minh là một công
trình to lớn, mang theo ý nguyện của Đảng, mong ước của Nhân dân, là một công
trình có tính chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đến nay, mặc dù chưa hoàn thành 100%, nhưng đường Hồ Chí Minh đã và đang phát
huy hiệu quả thực tế. Trong những năm tới, nhất là khi hoàn thành nối thông
toàn tuyến từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Đất Mũi (Cà Mau), đường Hồ Chí Minh sẽ càng
đóng góp to lớn hơn, làm nên những “kỳ tích” mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
2. Phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn, Binh đoàn 12 - Tổng
Công ty xây dựng Trường Sơn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
Sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta giành thắng lợi, đầu tháng
7/1975, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn chuyển sang làm
nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Đầu năm 1976, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất Bộ
đội Trường Sơn và Bộ Tư lệnh Công binh thành Bộ Tư lệnh Công trình. Đến tháng
3/1976, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế thay
cho Bộ Tư lệnh Công trình. Tháng 10/1977, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập Binh đoàn 12 và Binh đoàn 14 trực thuộc Tổng cục Xây dựng kinh tế trên cơ sở
lực lượng chủ yếu của Bộ đội Trường Sơn và được tăng cường thêm lực lượng của
các đơn vị trong toàn quân chuyển sang làm kinh tế. Đến năm 1979, Tổng cục Xây
dựng kinh tế và Binh đoàn 14 giải thể, Binh đoàn 12 chuyển về trực thuộc Bộ Quốc
phòng, là đơn vị kế thừa truyền thống của Bộ đội Trường Sơn anh hùng. Nhiệm vụ
chủ yếu của Binh đoàn là xây dựng cầu đường chiến lược, chiến dịch phục vụ nhiệm
vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; trước mắt làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu
ở mặt trận Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Phát
huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ, bước vào mặt trận
mới xây dựng kinh tế đất nước kết hợp với quốc phòng, với tinh thần cách mạng
tiến công, cán bộ, chiến sĩ, công nhân và viên chức quốc phòng Binh đoàn 12 lại
có mặt ở những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, trải rộng trên địa bàn 21 tỉnh,
thành phố trong nước và 5 tỉnh của nước bạn Lào.
Những năm đầu,
nhiệm vụ chủ yếu của Binh đoàn là xây dựng cơ bản đường Hồ Chí Minh dọc theo
Đông Trường Sơn từ Nghệ An đến Bình Phước với tổng chiều dài 1.920km, góp phần
quy hoạch lại dân cư, phát triển kinh tế các địa phương dọc Trường Sơn và Tây
Nguyên. Đồng thời, năm 1978, trước yêu cầu phòng thủ đất nước ở phía Bắc, Binh
đoàn đưa 5 sư đoàn làm nhiệm vụ xây dựng Quốc lộ 279, đường vành đai chiến lược
nối thông các tỉnh biên giới phía Bắc, từ Quảng Ninh đến Lai Châu dài hơn
1.000km. Đây là con đường vành đai chiến lược nối liền 7 tỉnh biên giới phía Bắc
và nối với các đường trục dọc, góp phần bảo đảm cơ động lực lượng, phương tiện
làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cùng với nhiệm vụ xây dựng cầu, đường bộ, Binh
đoàn 12 còn xây dựng 6 tuyến đường sắt, tham gia xây dựng hàng loạt công trình
trọng điểm của Nhà nước.
Trong hơn 10 năm sau Ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một số đơn vị thuộc Binh đoàn 12 đã xây dựng
cơ bản 9 tuyến đường của bạn Lào với tổng chiều dài hơn 360km, 36 cầu vĩnh cửu;
giúp bạn xây dựng một số công trình kinh tế, văn hóa ở 4 tỉnh; huy động hàng
ngàn chuyến xe vận chuyển giúp bạn hàng ngàn tấn lương thực.
Ở trong nước, từ năm 1977 đến năm
1988, Binh đoàn 12 đã mở mới, sửa chữa nâng cấp được trên 5.500 km đường (trên
500km đường nhựa); 5.147m cầu, 31.758m cống bê tông, đào đắp hàng chục triệu
mét khối đất đá. Tên của Binh đoàn 12 đã gắn liền với nhiều công trình trọng điểm
của Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Đầu năm 1989, thực hiện sự chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế của cả nước, theo quyết định của Nhà nước và Bộ Quốc
phòng, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn được thành lập trên cơ sở tổ chức biên
chế và các lực lượng của Binh đoàn 12, là doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng, tự
hạch toán, tự trang trải và trực thuộc Bộ Quốc phòng. Từ đây đơn vị mang 2
phiên hiệu: Binh đoàn 12 và Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn.
Từ năm 2017
đến năm 2020 thực hiện chủ trương của Chính phủ và Bộ Quốc phòng về cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội, trọng tâm là cổ phần hóa
doanh nghiệp. Từ năm 2022 đến nay, theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn tiếp tục được công nhận lại là
doanh nghiệp quốc phòng, an ninh.
Kế thừa và phát huy truyền thống
vẻ vang của Bộ đội Trường Sơn anh hùng, sau 35 năm (1989 - 2024) phát
triển trưởng thành, với nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, tự hoạch
toán kinh doanh, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ kỹ thuật có kinh
nghiệm thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng đã giúp cho Tổng công ty
từng bước vượt qua giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, không ngừng phát
triển lớn mạnh; giá trị sản xuất hàng năm tăng khá, đặc biệt năm 2023 tăng 87%
so với năm 2022 tăng gấp 2,5 lần so với năm 2019; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp
ngân sách nhà với Nhà nước.
Đến nay, Binh đoàn 12 đã trở
thành một trong những tổng công ty mạnh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao
thông cầu đường, thủy điện, thủy lợi; có đủ khả năng xây dựng các công trình trọng
điểm có quy mô lớn trong nước và quốc tế. Nhiều công trình tầm
vóc trọng điểm quốc gia trên khắp mọi miền Tổ quốc được Binh đoàn
12 thi công trong đó có nhiều gói cao tốc Bắc Nam trục dọc
như: Mai Sơn - Quốc lộ 45, Quốc lộ 45 - Nghi Sơn, Nghi Sơn - Diễn Châu, Diễn
Châu - Bãi Vọt, Bùng - Vạn Ninh, Vạn Ninh - Cam Lộ, Cam Lộ - La Sơn, Hòa Liên -
Túy Loan, Hoài Nhơn - Quy Nhơn, Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Hậu Giang, Hậu
Giang - Cà Mau… và 03 gói trục ngang Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cao tốc
Biên Hòa - Vũng Tàu; các gói thầu thi công đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội;
Vành đai 3 - Thành phố Hồ Chí Minh, cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, đường kết nối
ven biển tỉnh Quảng Ninh; các dự án sân bay như: Sân bay Long Thành, sân bay
Phan Thiết, hệ thống Nhà ga, đường lăn, sân đỗ, đường cất hạ cánh tại Sân bay Nội
Bài, Tân Sơn Nhất; các dự án thủy điện Hòa Bình, thủy điện Ialy mở rộng; các
gói thầu xây dựng Bệnh viện TW Quân đội 108, Bệnh viện Quân y 175 và một số dự
án xây dựng đường đô thị, kè đê biển, đảo, đường tuần tra biên giới, rà phá bom
mìn trên địa bàn các tỉnh...
Quá trình xây dựng, phấn đấu và
trưởng thành, Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn luôn tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; đoàn kết, chủ động, sáng tạo, tự
lực, tự cường, vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, xứng đáng là đơn vị kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Bộ đội
Trường Sơn anh hùng.
Ghi nhận, biểu
dương những chiến công và thành tích vẻ vang, trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1959 - 1975) Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn vinh dự được
Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Huân
chương Sao Vàng cho các thế hệ Bộ đội Trường Sơn; 85 tập thể và 52 cá
nhân thuộc Bộ đội Trường Sơn được tuyên dương và truy tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và hàng trăm lượt đơn vị, hàng vạn lượt
cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng huân chương, huy chương các loại.
Trong thời kỳ xây dựng kinh tế kết hợp
với quốc phòng (1976 - 2024) được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Quân công;
Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và 06 năm liền (1981 - 1985)
được tặng cờ thi đua của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); 5 công trình
được tặng “Huy chương vàng” và Bằng chứng nhận công trình chất lượng cao; 05 tập
thể được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 03 tập thể và 03 cá
nhân được tuyên dương Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Nhân dịp kỷ niệm 60
năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn; Đảng,
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất cho Binh đoàn 12.
Kỷ niệm 65 năm Ngày mở Đường Hồ
Chí Minh - Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn là dịp để chúng ta bày tỏ lòng
thành kính tri ân sâu sắc đối với các thế hệ cha anh đã một thời “xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”; mãi khắc ghi công lao to lớn của Bộ đội Trường Sơn, dân công
hỏa tuyến, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, văn nghệ sĩ, đồng
bào các dân tộc đã từng tham gia, phục vụ chiến đấu làm nên con đường huyền thoại
Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chi Minh. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
phẩm chất cao quý của Bộ đội Trường Sơn, chúng ta nguyện ra sức thi đua học tập,
lao động, sản xuất và chiến đấu góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội
đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng.