I. BỐI
CẢNH TÌNH HÌNH
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế
quốc Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh nhất thế giới tư bản, đứng ra giữ vai trò giám
sát, can thiệp vào các vấn đề quốc tế để bảo vệ cho cả hệ thống đế quốc chủ
nghĩa đã bị suy yếu nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng trước sự ra đời và lớn
mạnh nhanh chóng của hệ thống xã hội chủ nghĩa với trụ cột là Liên Xô, Trung
Quốc. Đây là nhân tố mới, làm thay đổi tương quan lực lượng toàn cầu, có lợi cho
phong trào cách mạng thế giới; buộc Mỹ phải thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm
chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân
tộc, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tranh giành vị trí
và ảnh hưởng với các đế quốc khác.
Với vị trí chiến lược quan trọng trong
khu vực Đông Nam Á và trước sự tiến công mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam, ảnh
hưởng sâu sắc đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, là ngọn cờ
tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại; đế quốc Mỹ xác
định Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất, có vị trí sống còn trong tuyến ngăn chặn
chủ nghĩa cộng sản nên đã tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương ngay từ
đầu những năm 50 thế kỷ XX. Một mặt, Mỹ ra tay giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay
thế Pháp để độc chiếm Đông Dương. Sau khi thực dân Pháp thua trận, Mỹ đã vi
phạm trắng trợn Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, vội vã lập ra khối quân sự Đông Nam Á
và hất cẳng Pháp, xâm chiếm miền Nam hòng đánh bại cách mạng Việt Nam, nhằm lập
phòng tuyến ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á, bao vây, uy
hiếp và chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở các nơi trên thế giới.
Về phía ta, mục tiêu độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc và phồn vinh là nguyện vọng thiêng
liêng, là sự nghiệp chính nghĩa của toàn thể Nhân dân, cũng là mục tiêu cơ bản,
lâu dài của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc
kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, trước hết là với các nước xã
hội chủ nghĩa, ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với các nước trên thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”,
từ đó Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân
đã ra tuyên bố công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thiết lập quan hệ
ngoại giao, ủng hộ và viện trợ vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân
dân ta.
Với thắng lợi qua các chiến dịch và Cuộc
tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta mà đỉnh cao là
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”
ngày 7/5/1954 đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơ-ne-vơ
về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, rút quân khỏi nước ta, công nhận độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tuy nhiên trong bối cảnh tình hình
chính trị thế giới lúc bấy giờ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ
tuyến 17 làm ranh giới; miền Nam vẫn phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ. Với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “Nam Bộ
là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, toàn
thể dân tộc Việt Nam trước sau như một đoàn kết đồng lòng, quyết đánh và quyết
thắng đế quốc Mỹ trở thành tư tưởng lớn của thời đại, để hoàn thành cho kỳ được
mục tiêu Tổ quốc thống nhất, đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà.
Chính vì vậy, “nước Việt Nam ta trở
thành nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm
của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế
giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính chất
thời đại rất sâu sắc”. Đó là nguồn gốc sâu xa, là nguyên nhân trực tiếp và
cũng là bản chất của cuộc chiến tranh giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm
lược.
II- CÁC GIAI ĐOẠN TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC
1. Giai
đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960
Theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ 1954, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu
vực được thi hành trong vòng 300 ngày, sau hai năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử
để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên, đế quốc Mỹ,
thực dân Pháp và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại việc thi hành
Hiệp định, cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường;
dụ dỗ và cưỡng ép gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi
hoặc phá hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt, gây khó
khăn cho ta trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; rải truyền đơn,
tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nhằm lung lạc quần chúng, gây hoang mang trong Nhân dân. Thông
qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện chính sách
"tố cộng, diệt cộng" đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù
những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành
Luật 10/59 biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, trại tập trung, cách
mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 mở
rộng (tháng 7/1954) xác định “Đế quốc Mỹ
là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, và hiện đang trở
thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Trước tình thế mới, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bố trí một số cán bộ, đảng viên ở lại miền
Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh, đồng thời thực hiện việc chuyển quân, đưa
hàng vạn con em, chiến sĩ, đồng bào, cán bộ ở miền Nam ra Bắc học tập, nhằm đào
tạo đội ngũ cán bộ phục vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cũng như chuẩn
bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và tái thiết đất nước sau
chiến tranh; lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, Đảng
ta tích cực chỉ đạo triển khai những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định,
sớm tổ chức cuộc sống mới sau chiến tranh. Sau kế hoạch 3 năm (1955-1957) khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, kế
hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững chắc cho đấu tranh thống nhất nước nhà, miền
Bắc đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản
xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra
vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, kiên
cường, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 01/1959,
Nghị quyết Trung ương 15 ra đời, chủ trương chuyển
cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với
đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân; phản ánh đúng xu thế tất yếu của
lịch sử, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là ngọn
lửa dấy lên cao trào Đồng khởi (1959-1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng
miền Nam, mở đầu những thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Giai
đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965
Đầu năm 1961,
Tổng thống Mỹ Kennơđi chính thức thông qua chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,
thực chất là “dùng người Việt đánh người Việt” với công thức: lực lượng ngụy Sài
Gòn cộng vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ. Mỹ dùng quân đội ngụy tay sai làm công
cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu
nông dân miền Nam vào các trại tập trung, “Ấp chiến lược”, tách lực lượng cách
mạng ra khỏi Nhân dân.
Để đối phó với chiến lược mới
của địch, ngày 31/01/1961, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị “về phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Ngày 15/2/1961, các tổ
chức vũ trang miền Nam đã thống nhất thành “Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam”. Ở miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các phong trào thi
đua sôi nổi “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” ở khắp các địa phương, các
cấp, các ngành đã đưa cách mạng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc, không
ngừng tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh
cách mạng, kết hợp song song đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh
địch bằng cả quân sự và chính trị, kết hợp ba mũi giáp công, trên cả ba
vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
và tay sai.
Ngày 02/01/1963, chiến thắng
Ấp Bắc (Mỹ Tho) đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của
địch, với lực lượng đông hơn ta 10 lần, dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết
giặc lập công”. Từ năm 1964 - 1965, quân và dân ta trên chiến trường miền
Nam liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân càn quét
của địch, làm nên những chiến thắng oanh liệt, như: Bình Giã (2/12/1964 -
3/01/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965), Đồng Xoài (11/5 - 22/7/1965)...
Ngày 05/8/1964, Mỹ cho không
quân đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân ra miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của “hậu phương lớn” miền Bắc cho
“tiền tuyến lớn” miền Nam. Nhờ sự chuẩn bị từ trước, quân và dân ta đã kịp thời
phát hiện, mưu trí, dũng cảm, đánh bại cuộc tiến công của địch.
Trước những thắng lợi vang dội
của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ đứng trước sự thất bại hoàn toàn, buộc đế quốc Mỹ phải ồ ạt đưa quân đội
viễn chinh vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Từ
đây, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới.
3. Giai
đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968
Chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục
bộ”, đế quốc Mỹ sử dụng quân đội Mỹ làm lực lượng cơ động chiến lược để tìm
diệt bộ đội chủ lực ta; dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn để bình định,
kìm kẹp Nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30
tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967); đồng thời, đế
quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước, Người khẳng định quyết tâm của Nhân dân ta “dù
phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết
chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi
đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người khẳng định “Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng
quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo
những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Bàu Bàng,… quân và
dân ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh
thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam
Bộ và các mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở các thành phố lớn. Ở miền Bắc, quân
dân ta tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải
quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông
suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang
chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris, mở ra cục diện
mới vừa đánh vừa đàm.
- Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế
quốc Mỹ bị phá sản, chúng thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng
bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào; thực hiện chiến tranh hủy diệt và
nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm giành dân, bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc
kháng chiến của Nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp
với quân, dân Lào, Campuchia từng bước đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” của Mỹ. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương
trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng
thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường,
nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá
hoại lần thứ hai ra miền Bắc bằng máy bay B52 của Mỹ, làm nên chiến thắng oanh
liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
không”, thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh theo thế có
lợi cho ta. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp
chặt chẽ giữa "đánh và đàm", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973
về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân
các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, làm tương quan lực lượng thay đổi
có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành
thắng lợi cuối cùng.
5. Giai
đoạn từ cuối năm 1973 đến năm 1975
Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù buộc
phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng chính quyền, quân
đội ngụy Sài Gòn làm công cụ chiến tranh. Mỹ tăng cường chi viện tiền của, vũ
khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy lấn đất, giành dân, khống
chế Nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát
triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng
5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của quân đội ngụy
Sài Gòn ngày càng tăng.
Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã họp Hội nghị lần thứ
21, ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới, trong đó khẳng
định “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực
cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững
đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam
tiến lên” và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam -
Bắc. Thắng lợi toàn Miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là
chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy
yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó đưa quân trở lại Việt Nam. Đảng ta
nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến, quyết định tiến hành mở cuộc tiến
công chiến lược nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời tiến hành giành
lại chủ quyền trên các vùng biển, đảo và quần đảo phía Nam của Tổ quốc.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực,
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 04/3/1975
với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược
đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; hai chiến dịch giải phóng Huế
- Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định với
nhiều bước phát triển nhảy vọt.
-
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26/4 - 30/4/1975)
Sau một tháng Tổng tiến công
và nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to
lớn, toàn diện cả về chính trị và quân sự. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ
Quân khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi
vào tình thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực
lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để
có thể làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn
phòng ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây
dựng tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định.
Từ nhận định dù Mỹ có chi viện
cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của quân ngụy, Bộ Chính trị quyết định mở
cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt
nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm. Ngày 07/4/1975, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn
nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận,
giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Ngày 14/4/1975, theo đề nghị
của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý
chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Các lực
lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4)
và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh chủng tăng - thiết giáp,
đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh
khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích
chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta
được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: Hướng
Bắc - Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc - Quân đoàn 3 (Binh
đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng
Đông - Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư
đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước
cuộc tiến công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân
ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ
giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến
dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
- Giành lại
chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển, đảo, quần đảo phía Nam của Tổ quốc
Cùng với giải phóng trên đất
liền, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh nghiên cứu thời cơ để giành lại chủ quyền các đảo,
quần đảo do quân đội ngụy Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông, đây là phần lãnh thổ
rất quan trọng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế không thể tách rời
của Tổ quốc. Ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công các đảo thuộc vùng
biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa, giành lại chủ quyền
các đảo vào ngày 29/4/1975.
Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975,
bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của
quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
III- CHIẾN THẮNG 16/4/1975 - MỐC SON CHÓI LỌI TRONG
LỊCH SỬ CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN NINH THUẬN, GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI VĨ
ĐẠI CỦA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ
Sau thất bại
liên tiếp trên chiến trường Tây Nguyên và các tỉnh dọc Duyên Hải miền Trung, Ngụy
quyền Sài Gòn hoang mang cực độ, ra lệnh rút quân lui về co cụm, lập Bộ tư lệnh
tiền phương, xây dựng “Tuyến phòng thủ từ xa” bảo vệ Sài
Gòn, lấy Du Long - cách thị xã Phan Rang 30 km về phía Bắc làm nơi chốt chặn chủ
yếu; quyết tử thủ ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Tại đây, địch tăng cường tập
trung lực lượng, gồm Sư đoàn không quân số 6, 2 Trung đoàn và Tiểu đoàn bộ
binh, 1 Liên đoàn biệt động quân, 2 chi đoàn xe tăng, 1 hạm đội ở ngoài khơi sẵn
sàng chi viện. Với “Tuyến phòng thủ từ xa”, chúng hòng củng cố lại tinh thần binh
lính sau hàng loạt thất bại thảm hại trên các chiến trường, ngăn chặn thế tiến
công thần tốc của quân ta; bảo vệ từ xa bộ máy đầu não Ngụy quyền tại Sài Gòn
trước nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn.
Đứng trước thời
cơ ngàn năm có một, ngày 31/3/1975, Bộ Chính Trị họp và quyết định: “Cuộc
chiến tranh cách mạng ở Miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, thời
cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt địch
đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân
và dân ta bắt đầu”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Với tư tưởng chỉ đạo thần tốc,
táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, với quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng
khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không
thể để chậm”. Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Khu ủy và Quân khu
6 chỉ đạo Tỉnh uỷ Ninh Thuận: “Thời cơ đã đến, Tỉnh ủy Ninh Thuận phải phát
huy mọi lực lượng ở đồng bằng và căn cứ, tiến ngay ra phía trước tấn công địch,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kềm, giải phóng quê hương”.
Sau
khi tỉnh Khánh Hoà và Lâm Đồng được giải phóng, trong các ngày 01 đến ngày
03/4/1975, các toán tàn quân ở Đà Lạt tháo chạy theo đường 11 về Phan Rang. Chớp
thời cơ, ta mở các đợt công kích địch đánh chiếm các ấp ở Sông Mỹ; sau đó lần
lượt đánh chiếm các ấp ven đường 11 từ Krông-Pha đến Đèo Cậu, giải phóng quận
Krông-Pha. Mặc dù địch dùng nhiều máy bay kết hợp với xe tăng, pháo binh, bộ
binh đánh phá ác liệt vào vùng căn cứ và vùng mới giải phóng, nhưng quân và dân
Ninh Thuận vẫn kiên cường bám trụ, bẻ gãy tất cả đợt phản kích của địch. Được sự
chỉ đạo của Quân khu 6, Tỉnh ủy Ninh Thuận chỉ đạo rút bộ đội địa phương của 2
huyện Bác Ái và Anh Dũng cùng một số đơn vị khác của tỉnh để bổ sung cho Tiểu
đoàn 610, làm nhiệm vụ chốt giữ Đèo Cậu, chặn đánh địch từ sân bay Thành Sơn
bung ra phản kích, bảo vệ quận Krông-Pha và sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực
vào giải phóng Phan Rang.
Chiều ngày
07/4/1975, tại Tháp Chàm trong lúc tinh thần địch hoang mang rối loạn, lực lượng
ta bung ra khống chế bọn tề điệp, ác ôn và dân vệ. Đến 19 giờ cùng ngày, lực lượng
vũ trang thị xã và du kích mật tấn công Trại Nguyễn Hoàng, Ga Tháp Chàm, Cầu
Móng, ngã ba Tháp Chàm và quận lỵ Bửu Sơn. Địch ở sân bay Thành Sơn tung lực lượng
ra phản kích quyết liệt. Đại đội 311 được dân quân du kích và Nhân dân xóm Dừa
giúp đỡ đã anh dũng chiến đấu suốt 2 ngày đêm trong lòng địch, đánh lui 16 đợt
phản kích của chúng. Để đập tan tuyến phòng thủ từ xa của địch, đồng chí Thượng
tướng Lê Trọng Tấn Tư lệnh cánh quân duyên hải quyết định sử dụng Sư đoàn 3 của
Quân khu 5, Trung đoàn 25 Tây Nguyên và Quân khu 6, tăng cường 2 đại đội đặc
công và công binh cùng với các lực lượng của Ninh Thuận chuẩn bị tấn công “Tuyến
phòng thủ từ xa”. Tỉnh uỷ Ninh Thuận hạ quyết tâm cao nhất, lãnh đạo bộ đội địa
phương, dân quân du kích, Nhân dân trong tỉnh phối hợp với các lực lượng chủ lực
của Trung ương và Quân khu chi viện, vùng lên tấn công và nổi dậy đánh đổ chế độ
Mỹ - Ngụy, giải phóng tỉnh nhà.
Sáng ngày
14/4/1975, tiếng pháo công kích của đại quân ta bắt đầu bắn vào điểm chốt của địch
ở Bà Râu, Suối Đá, Kiền Kiền, Ba Tháp, Núi Đất và sân bay Thành Sơn. Đến 7 giờ
sáng ngày 14/4/1975, Sư đoàn 3 bộ binh ta tấn công chiếm quận lỵ Du Long và các
vị trí Bà Râu, Suối Vang, Suối Đá, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch tại đây;
đồng thời bẻ gãy nhiều đợt phản công của chúng hòng giữ “Tuyến Phòng thủ từ xa”. Sáng ngày 16/4/1975, lệnh tấn công
được phát ra, lực lượng ta chia làm 3 mũi chính: Mũi thứ nhất có xe tăng dẫn đầu
tiến theo đường Quốc lộ 1, sau khi đánh chiếm Phan Rang sẽ tiến lên sân bay
Thành Sơn từ hướng Nam; mũi thứ 2 từ hướng Tây Bắc đánh thẳng vào sân bay Thành
Sơn; mũi thứ 3 đánh chiếm cảng Ninh Chữ, không cho địch tháo chạy ra biển. Phối
hợp với quân chủ lực, lực lượng 311 ở núi Cà Đú xuất kích, đánh tạt vào sườn
quân địch đang tháo chạy. Ở hướng Tây Bắc, 2 đại đội đặc công và công binh Quân
khu 6 phối hợp với lực lượng địa phương chọc thẳng xuống Phước Thiện, Ninh Quý,
vượt qua Cầu Sắt vào khu vực Bảo An - Tháp Chàm. Đến 9 giờ 30 phút ngày 16/4/1975 cờ
Mặt trận giải phóng tung bay trên đỉnh Toà hành chính - cơ quan đầu não ngụy
quyền Ninh Thuận, đánh dấu tỉnh Ninh Thuận hoàn toàn giải phóng. Tuyến phòng thủ
từ xa bảo vệ Sài Gòn bị đập tan đã tạo thế mở đường cho đại quân ta tiến vào giải
phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
IV- Ý NGHĨA
LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng
và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc.
Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên của độc lập,
thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới;
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc
lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc
đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự
phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử này, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) khẳng định: Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.
2. Nguyên nhân thắng lợi
2.1. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ
những nguyên nhân chủ yếu
Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính
yêu với đường lối chính trị, quân sự, độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo,
phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến.
Hai là, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của
quân và dân cả nước, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên
những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ba là, sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động; của lòng
yêu nước nồng nàn - khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của
đồng bào ta.
Bốn là, lòng
trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng
vũ trang nhân dân với sự chỉ huy thao lực của các vị Tướng lĩnh tài ba.
Năm là, tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ
to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế, của liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt
Nam, Lào, Campuchia, sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà
bình, tiến bộ trên thế giới.
2.2. Nguyên nhân thắng
lợi của Đảng bộ và Nhân dân Ninh Thuận
Một
là, Đảng bộ Ninh Thuận quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là của quần
chúng, đã huy động sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân đứng lên chống giặc ngoại
xâm.
Hai là, nhờ nắm vững đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài; phát huy sức mạnh nhân tài, vật lực của địa phương là chính, đồng thời vận
dụng có hiệu quả sự chi viện của Trung ương và các tỉnh trong cả nước.
Ba là, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng,
không ngừng xây dựng và củng cố phát triển lực lượng võ trang, phát triển chiến
tranh du kích, liên tục tấn công địch, bảo vệ thành quả cách mạng, giành thắng
lợi cuối cùng.
Bốn là, xây dựng căn cứ địa, tạo thế vững chắc để tiến hành cuộc
kháng chiến lâu dài cho đến ngày giành thắng lợi.
Năm là, sự
lãnh đạo chủ động, trực tiếp của Đảng bộ, giữ vững khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là: (1)
Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; (2)
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; (3)
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo; (4) Tổ chức lực lượng cả
nước đánh giặc; (5) Căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; (6)
Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; (7) Đoàn kết quốc tế,
phát huy sức mạnh của thời đại; (8) Bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người.
V- THÀNH TỰU
PHÁT TRIỂN 50 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - TIỀN ĐỀ CHO KỶ
NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
1. Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh để lại. Một sự kiện quan trọng diễn ra sau ngày miền Nam giải phóng
là cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng
thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong đó, cuộc chiến tranh ở biên giới
Tây Nam do tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari ở Campuchia gây ra ngay sau
khi Việt Nam vừa mới giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Việt Nam chỉ kéo dài 2 năm
(từ năm 1977 đến 1979) nhưng hậu quả kinh tế, xã hội của nó khá nặng nề đối với
Việt Nam. Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh
tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống Nhân
dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức
nghèo khổ.
Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí quyết tâm, bản
lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ; sau
gần 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn
nổi bật.
- Về chính trị: Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước, phát huy
mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn
thiện; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.
- Về kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 433,7 tỷ USD, đứng thứ 35 trên
thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 4.323 USD, gấp 58
lần sau ba thập kỷ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,93% năm
2023. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn
của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu
vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, đời sống vật chất và tinh
thần của Nhân dân được nâng cao rõ rệt.
Năm 2024, tăng trưởng cả năm đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc
độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định,
lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư. Quy
mô GDP theo giá hiện hành ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ
USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người,
tương đương 4.700 USD; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo
giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động. Giá trị thương hiệu quốc gia
Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. Tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 786,29 tỷ USD tăng 15,4%, xuất siêu 24,77 tỷ
USD, là năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Thu NSNN ước cả năm đạt 2.037,5 nghìn tỷ
đồng tăng 19,8% so với dự toán. Đầu tư phát triển đạt kết quả tích cực. Nhiều
công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết
nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương
quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất
thế giới với 38,23 tỷ USD đăng ký, vốn thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4%,
cao nhất trong nhiều năm qua; khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam ước đạt
17,6 triệu lượt, tăng 39,5% so với năm 2023. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch
tích cực: kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh
vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó công nghiệp phục hồi tích cực, là động
lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc, định hình hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt
Nam. Đến nay có gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên
đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm
2014... Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được nâng lên. Chính sách
an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính
sách người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực
hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Sức khỏe của Nhân dân được quan tâm chăm
sóc; việc khám, chữa bệnh tiếp cận được nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Năm 2024, an sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời
sống người dân được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của
Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ
54/143. Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo
hiểm y tế tăng từ 90,2% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các
cấp được cải thiện. Ứng dụng khoa học - công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển. Chất lượng nguồn
nhân lực được nâng lên ; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng. Các
chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm
sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao
tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được
tăng cường. Chỉ số phát triển bền vững
(SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.
- Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được bảo vệ
vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
với củng cố quốc phòng - an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố,
tăng cường trên nhiều mặt. Xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về
chính trị, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hình thành
thế trận an ninh nhân dân, bố trí chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng
công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, đưa công an nhân
dân gần dân, sát dân để phục vụ. Có đối sách, giải pháp phù hợp, xử lý kịp
thời, có hiệu quả các tình huống, không để xảy ra bị động, bất ngờ, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
- Về đối ngoại: Hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành
tựu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài, tạo cục diện đối ngoại mới,
rộng mở, thuận lợi cho an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, thể
hiện vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Nâng cấp, nâng tầm
quan hệ với các đối tác chủ chốt, các nước lớn; đảm nhiệm thành công nhiều
trọng trách quốc tế; đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp tại các cơ chế hợp tác
đa phương quan trọng. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, khai thác hiệu quả các
cơ hội hợp tác kinh tế. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc
gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến
lược toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến
lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại
với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là
bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất,
chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức
Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.
2. Sau giải phóng, là vùng đất đã trải qua hơn 20 năm
du nhập lối sống Mỹ nên vấn đề tệ nạn xã hội ở Nam Bộ khá nan giải với số lượng
lớn người thất nghiệp, thương, phế binh, người nhập cư, người nghiện ma túy,
trẻ mồ côi, người ăn xin, cờ bạc buôn lậu… Khắc phục khó khăn để vươn lên cùng
cả nước, sau 50 năm, Nam Bộ đã đạt được nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế các vùng
tiếp tục chuyển dịch tích cực; giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế
thừa và phát huy, một số di tích văn hoá lịch sử được tu bổ, tôn tạo; hệ thống
giáo dục, đào tạo được quan tâm đầu tư, mạng lưới y tế được củng cố; bảo vệ môi
trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước được chú
trọng, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống Nhân dân ngày được nâng
cao, trong đó tốc độ tăng trưởng GRDP các vùng của Nam Bộ những năm gần đây đạt
mức khá.
Riêng với Thành phố Hồ Chí Minh, vinh dự mang tên Bác từ năm 1976, Thành phố đã bứt phá mạnh mẽ, đạt được nhiều
kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Đặc biệt, với quy mô và tiềm
lực vượt trội, Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng cả nước vượt qua nhiều cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước phát triển theo chiều sâu dựa
trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sự nghiệp giáo
dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, phát triển văn hoá, xã hội đạt nhiều
kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng
nâng lên, sớm xác lập và giữ vững vai trò đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất
cả nước và ngày càng có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.
3. Thành tựu phát triển của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Ninh
Thuận qua 50 năm giải phóng tỉnh Ninh Thuận, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước và 33 năm tái lập tỉnh
Ngay từ khi tỉnh Ninh Thuận được giải
phóng, đã nhanh chóng tiếp thu, tiếp quản các cơ sở; thành lập chính quyền cách
mạng lâm thời các cấp, ban bố lệnh thiết quân luật để giữ gìn an ninh, trật tự,
ổn định tình hình địa phương. Để ổn định đời sống Nhân dân, Đảng bộ tập trung
lãnh đạo quân và dân trong tỉnh ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất;
tích cực xóa nạn mù chữ; ngành y tế nhanh chóng đi vào hoạt động; lực lượng
quân sự của tỉnh được quan tâm củng cố và phát triển...
Từ
tháng 02 năm 1976 đến năm 1991, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy sáp nhập
thành tỉnh Thuận Hải. Ninh Thuận là một phần ở phía Bắc tỉnh Thuận Hải. Thực hiện
đường lối đổi mới theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, các tầng lớp Nhân
dân trong tỉnh đã nỗ lực khắc phục khó khăn, bước đầu tạo một số chuyển biến
quan trọng trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Năng lực sản xuất được giải
phóng, nguồn vốn trong Nhân dân được huy động đầu tư mở rộng sản xuất. Nhìn
chung sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đều có
bước phát triển mới, kinh tế nhiều thành phần phát triển đa dạng. Đời sống Nhân
dân được cải thiện hơn, nhất là ở vùng đồng bằng; công tác xây dựng Đảng được
tăng cường, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tính đến
cuối năm 1991, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn Ninh Thuận đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, đáng phấn khởi, làm tiền đề cho bước phát triển trong
giai đoạn tiếp theo của Ninh Thuận.
Theo đề nghị
của Ban Chấp hành Đảng bộ và HĐND tỉnh Thuận Hải, tại kỳ họp thứ 10 ngày
26/12/1991, Quốc hội khóa VIII đã quyết định tách tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ ngày 01/4/1992 tỉnh Ninh Thuận được tái lập
và chính thức đi vào hoạt động.
Ninh Thuận chúng ta rất tự hào đã cùng Nhân dân cả nước viết
nên trang sử vẻ vang của dân tộc, hun đúc nên truyền thống anh hùng của vùng đất
kiên trung. Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, nhất là qua 33 năm
tái lập tỉnh, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Ninh Thuận luôn đoàn kết, phát huy sức mạnh các nguồn lực, vượt
qua mọi khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Ninh Thuận
từ một tỉnh thuần nông đã vươn lên thành tỉnh phát triển khá trong khu vực, đời
sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được cải thiện; diện mạo đô
thị và nông thôn ngày càng khởi sắc. Đạt được những thành quả đó là do trong
quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo, toàn Đảng bộ luôn nâng cao bản lĩnh chính
trị, vững vàng trước mọi biến động; bám sát thực tiễn, đề cao tinh thần trách
nhiệm, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, năng động, sáng tạo,
quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Năm
2024, tỉnh Ninh Thuận triển
khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh có những thuận lợi, cơ hội mới nhưng khó khăn, thách thức nhiều
hơn. Trước tình hình đó, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, đoàn kết vượt qua khó khăn, thách thức, với quyết tâm chính trị cao, chủ động, kịp
thời nắm bắt thời cơ, tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, sát tình hình, có
trọng tâm, trọng điểm, triển khai hiệu quả 03 khâu đột phá và 06 nhóm ngành,
lĩnh vực trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng; đã đạt kết quả tích cực trên các
lĩnh vực. Tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục phục hồi ổn định và tăng trưởng
khá; tốc độ tăng trưởng GRDP đạt
8,74%, đứng thứ 4/14 tỉnh khu vực và 16/63 tỉnh, thành;
GRDP bình quân đầu người đạt 98,2 triệu đồng; tổng thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn đạt 4.248 tỷ đồng, tăng 7,1% so cùng kỳ, vượt 6,2% kế
hoạch; tỷ trọng đóng góp của kinh tế
biển vào GRDP đạt 42,22%. Một số lĩnh vực chuyển biến tích cực;
các
ngành thương mại, du lịch, dịch vụ, công nghiệp tăng khá; kinh tế nông nghiệp
và nông thôn duy trì tăng trưởng ổn định, quy mô sản xuất nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao vượt mục tiêu đề ra. Công tác giải ngân vốn đầu tư công cơ bản đạt mục
tiêu; hoạt động doanh nghiệp có tín hiệu phục hồi. Tổ chức thành công Hội nghị
công bố Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu
tư đã tạo hiệu ứng lan tỏa thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư; công tác xúc tiến đầu tư có nhiều
đổi mới; đặc biệt, năm 2024, Ninh Thuận nằm trong nhóm 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về
thu hút đầu tư (FDI), tổng vốn trên 1.214 triệu USD. Cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo vận hành thông suốt góp
phần gia tăng sự kết nối, thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Quản lý nhà nước về đất đai, khoáng sản và bảo vệ môi trường được tăng
cường; các điểm nghẽn về đất đai dần được tháo gỡ. Các
dự án trọng điểm, động lực được tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ. Các chính sách an sinh xã hội được triển
khai đầy đủ, kịp thời;
công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách và hộ nghèo được thực hiện tốt
hơn; giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt mục tiêu đề ra. Công tác quân sự, quốc phòng được
bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Quan
hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế được mở rộng, vị thế của tỉnh được nâng lên.
Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được tập trung chỉ đạo với tinh thần
chủ động, sâu sát, quyết liệt, toàn diện, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng.
VI- PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm tăng tốc, bứt phá, về đích, để phấn đấu
đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh 05 năm (2021 - 2025); hoàn thành thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIV; chuẩn bị tổ
chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, tiến tới Đại hội XIV của Đảng; đồng
thời, triển khai thực hiện
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và thực hiện chủ
trương của Quốc hội khởi động lại Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận...
Để đạt được mục tiêu, Đảng bộ và Nhân dân Ninh Thuận tiếp
tục nêu cao tinh thần
đoàn kết, nỗ lực vượt khó, tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực cho đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực cạnh
tranh, phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhằm thúc đẩy phát triển
toàn diện kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội; giữ vững
quốc phòng, an ninh; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học
kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm
sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển
phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam. Trong đó, tập
trung vận dụng và thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp:
1. Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
2. Nhận diện sớm, phát huy nhanh mọi thời cơ, thuận lợi, vượt
qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước;
gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ chiến lược, trong đó: Phát
triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh
và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy
mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lòng yêu nước cách mạng, tinh
thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường,
tự hào dân tộc”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vững bước vào kỷ nguyên
mới, đạt mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Đẩy mạnh, xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nhanh,
bền vững đất nước, kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và
giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tự chủ chiến lược phát triển; phát huy nguồn nội lực là chủ đạo,
nguồn lực quốc tế là quan trọng; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Đồng bộ và đột phá trong xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới
(kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng
chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện
quan hệ sản xuất. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi
xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát
triển.
4. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền,
sức chiến đấu của Đảng; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tiếp tục nghiên cứu, sắp
xếp tinh gọn đơn vị hành chính các cấp; hoàn thiện nâng cao hiệu năng, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị gắn
với cơ cấu lại và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất,
năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Kiên định lập trường, quan điểm và thực
hành “Dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”, thắt
chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân; tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng; thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; thực hành và phát huy rộng rãi
dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò làm chủ và chủ thể của Nhân dân là những nhân
tố có ý nghĩa quyết định thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai
đoạn mới.
Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán
triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng
viên; đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đổi mới quy trình
xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở bám sát thực tiễn, đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa
phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, tạo thuận lợi
cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây
dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách
nhiệm người đứng đầu, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi
ích nhóm”. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những
vấn đề mới, xu hướng mới, tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc
cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp
theo.
5. Luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà
nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng “thế trận lòng dân”,
lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp
chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường đầu tư
thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực
lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước
từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
6. Giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm cao nhất lợi ích của
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Kiên
trì và sáng tạo thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả.
Chủ động tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; phấn đấu trở thành
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích chung
của hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới.
Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng tỉnh
Ninh Thuận, Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 33 năm Ngày tái lập
tỉnh, là dịp để Đảng bộ và Nhân dân Ninh Thuận ôn lại những trang sử hào hùng
của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước và
của tỉnh; tự hào và phấn khởi trước những thành tựu đã đạt được trong chặng
đường qua; đồng thời nhận thức sâu sắc những thách thức, khó khăn đang đặt ra
phía trước. Với phương châm hành động “Đoàn
kết kỷ cương; chủ động sáng tạo; tinh gọn hiệu quả; tăng tốc bứt phá”; Đảng
bộ và Nhân dân Ninh Thuận tiếp tục phát huy truyền thống, quyết tâm chung sức,
đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy tinh thần cách mạng dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2025.
