I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
- 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
1. Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, đánh thắng
hai trận đầu, cùng Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1944 -
1945)
Ngay từ khi ra đời (3/2/1930),
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định con đường đấu tranh
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng để giành
chính quyền và yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”[1] để làm nòng cốt cho toàn dân tiến
hành đấu tranh cách mạng. Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10/1930) xác định
nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó chỉ rõ phải: “Lập
quân đội công nông”[2].
Trong phong trào cách mạng 1930 -
1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công
nông, Đội tự vệ công nông (Tự vệ Đỏ) đã ra đời. Đó là tiền đề đầu tiên của
lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Tiếp theo đó, hàng loạt tổ chức vũ trang
lần lượt được thành lập như: Đội du kích Bắc Sơn (1940), các đội du kích ở Nam
Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941)…
Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa
hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
(nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được
thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong Chỉ thị, Người ghi rõ:
“Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn
quân sự. Nó là đội tuyên truyền”[3]; “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu
quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải
phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[4]. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương
Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, tuyên bố thành
lập Đội, gồm 34 người, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội
trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng lãnh đạo. Ngày
22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam
được thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng)
Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ
ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo,
bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt và 07 giờ sáng hôm sau (26/12) lại đột nhập
đồn Nà Ngần (đều đóng tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), tiêu diệt hai tên đồn
trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch, thu vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến
thắng Phai Khắt, Nà Ngần mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ của Đảng đã quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng
trên cả nước thành Việt Nam giải phóng quân. Trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Việt Nam giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và
Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ
quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân
đội nhân dân Việt Nam.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Khi thực dân Pháp xâm lược nước
ta lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ,
cùng Nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết chiến đấu với quân xâm lược. Cuối năm
1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến
khu. Lúc này, ở Nam Bộ vẫn tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn, ở Bắc Bộ và Trung
Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến khu; hệ thống tổ chức đảng
trong Quân đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn
quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân ta đã
đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều
phương tiện chiến tranh của địch. Mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, nơi đây trở thành trung tâm chỉ đạo
kháng chiến của cả nước.
Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp
huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, bất ngờ tiến
công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực
của ta. Sau hơn hai tháng mở chiến dịch phản công (7/10 - 20/12/1947), ta
đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch. Đây là chiến dịch phản
công quy mô lớn đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân
ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn và làm phá sản chiến lược “đánh nhanh,
thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ
cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước.
Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947,
Quân đội ta đã có bước trưởng thành, song chưa có khả năng mở những chiến dịch
lớn. Để đánh bại âm mưu bình định của địch, ta chủ trương phát động chiến tranh
du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, vừa đẩy
mạnh chiến tranh du kích vừa học tập tác chiến tập trung vận động chiến. Các tiểu
đoàn tập trung được củng cố xây dựng và từng bước tiến lên đánh những trận phục
kích, tập kích lớn hơn. Từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1950, bộ đội ta liên tiếp
mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường. Mức độ tập trung cho mỗi chiến
dịch từ 3 đến 5 tiểu đoàn, sau nâng dần lên 2 đến 3 trung đoàn, có chiến dịch sử
dụng cả sơn pháo và trọng liên. Trong nhiều trận đánh, quân ta đã tiêu diệt từng
đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự và tiêu diệt cứ điểm có trên dưới một
đại đội địch đóng giữ.
Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh
chủ trương rút các đại đội độc lập về xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực.
Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 ra đời; ngày 10/3/1950, Đại đoàn 304 được thành lập.
Công tác huấn luyện được đẩy mạnh. Qua các cuộc vận động “luyện quân lập công”,
“rèn cán chỉnh quân” trong các năm 1948, 1949 và đầu năm 1950, lực lượng vũ
trang ta không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết
định mở chiến dịch Biên giới, chủ động tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9 -
14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, giải phóng
khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được
mở rộng và củng cố, phá vỡ thế bao vây, khai thông liên lạc với Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới.
Chiến thắng Biên giới góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh: Ta
bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, quân Pháp chuyển dần
sang chiến lược phòng ngự; đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về nghệ
thuật chiến dịch và sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội ta.
Sau chiến dịch Biên giới, các đại
đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại đoàn 312 (12/1950), Đại đoàn 320
(1/1951), Đại đoàn công pháo 351 (3/1951), Đại đoàn 316 (5/1951). Trong vòng 6
tháng (12/1950 - 6/1951), ta đã liên tiếp mở ba chiến dịch mang tên: Trần Hưng
Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung. Đây là những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên
đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ta đã diệt
hơn một vạn tên địch, trong đó gần một nửa là quân cơ động.
Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết
định mở chiến dịch Hoà Bình; vừa tập trung chủ lực trên mặt trận chính Hoà
Bình, vừa đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc
Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Chiến dịch diễn ra
từ ngày 10/12/1951 đến ngày 25/2/1952; quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu
hơn 6.000 tên địch ở mặt trận Hòa Bình và hơn 15.000 tên địch ở mặt trận địch hậu.
Trong chiến dịch này, bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ
thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp tác chiến giữa
ba thứ quân.
Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị
quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Sau gần hai tháng chiến đấu (14/10 -
10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng một
vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông vùng giải phóng Tây Bắc
với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất
bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Ngày 5/12/1952, tại Bình - Trị -
Thiên, Đại đoàn 325 được thành lập, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của
“các quả đấm chủ lực cách mạng”. Tính đến thời điểm này, đội quân chủ lực trực
thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 320, 316, 325)
và 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351).
Trước những thay đổi cục diện chiến
tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa
ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các
đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường. Ta đã
hình thành năm đòn tiến công chiến lược tại Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông
Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải
phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi.
Sau khi thực dân Pháp đổ quân
đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị
họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954)
liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62
máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện
Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm
lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao
của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là minh
chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu
và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
.jpg)
3. Quân đội nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng
Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, tháng 3/1957, Hội nghị Trung ương lần
thứ 12 (mở rộng) ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng,
Nghị quyết chỉ rõ: “Phương châm xây dựng quân đội của chúng ta là tích
cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy
hoá và hiện đại hoá”[5].
Đến năm 1960, Quân đội ta đã có
bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh với tổ chức chưa thật thống
nhất, vũ khí, trang bị còn thiếu thốn đã trở thành Quân đội chính quy, ngày
càng hiện đại, gồm các lực lượng: Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân.
Đây là bước phát triển rất quan trọng, tạo nền móng cho xây dựng Quân đội tiến
tới chính quy, hiện đại, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
Ở miền Bắc, Quân đội đã tích cực
tham gia công tác tiếp quản các thành phố, thị xã và các vùng do quân Pháp chiếm
đóng trước đây. Thực hiện tốt nhiệm vụ quân quản, phối hợp với các lực lượng
công an nhanh chóng thiết lập trật tự, trị an, bảo vệ tính mạng, tài sản của
nhân dân, đấu tranh chống địch bắt người, cướp của, phá hoại tài sản công cộng.
Ở miền Nam, trong những năm 1954
- 1960, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất
nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo
lực cách mạng. Chấp hành nghị quyết của Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã
quyết định đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng Quân đội. Việc chuẩn bị cho bộ đội
ta vào miền Nam chiến đấu cũng được xúc tiến. Theo đó, Sư đoàn 338 bộ đội miền
Nam tập kết ra Bắc đã được tập trung huấn luyện trước khi lên đường vào Nam chiến
đấu. Ngày 19/5/1959, Đoàn 559 được thành lập với nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường
Sơn bảo đảm cho lực lượng ta vào Nam chiến đấu và vận chuyển lương thực, súng đạn
từ miền Bắc vào miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759 cũng được thành lập với nhiệm vụ vận
chuyển, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 đã
mở đường cho cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi. Để đẩy mạnh cao trào cách mạng
của quần chúng, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam; đây là bộ phận
của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp hoạt động trên chiến trường miền
Nam.
Từ năm 1961, đế quốc Mỹ tiến hành
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Được cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hỏa lực Mỹ
chi viện, ngụy quân Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải
phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã liên tục chiến đấu, giữ vững
và mở rộng vùng giải phóng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1/1963)
mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của
quân ngụy Sài Gòn; đồng thời mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập
công” sôi nổi khắp miền Nam.
Ngày 5/8/1964, sau khi dựng lên sự
kiện “Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo Hải quân nhân dân Việt Nam cố ý tiến công tàu khu trục
Mỹ ở vùng biển quốc tế nhằm đánh lừa dư luận, chính quyền Mỹ sử dụng không quân
bất ngờ mở cuộc tiến công mang tên “Mũi tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các
căn cứ của hải quân ta trên suốt dải ven biển miền Bắc. Nhờ chuẩn bị từ trước,
các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã kịp thời phát hiện, mưu
trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắt 1
phi công. Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược của quân dân cả nước.
Trên cơ sở những thắng lợi trong
năm 1963 và đầu năm 1964, tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực
lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965, tiêu diệt một bộ
phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau các chiến dịch
Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của ta giành thắng lợi, chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ hoàn toàn bị phá sản.
Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến đấu của Mỹ và đồng minh
cùng khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam[6], đồng thời củng cố và tăng cường quân ngụy.
Toàn bộ mục tiêu chiến lược của đế quốc Mỹ trong giai đoạn này là “tìm và diệt”
chủ lực Quân Giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, “bình định” miền
Nam, uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện áp đặt của
Mỹ.
Trước tình hình đó, từ tháng 9 đến
tháng 12/1965, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập tại chiến trường miền Nam 5
sư đoàn bộ binh (9, 3, 2, 5, 1) và một đơn vị pháo binh tương đương cấp sư đoàn
mang phiên hiệu Đoàn pháo binh 69. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu, bộ đội ta trên
các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành
quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà đánh”, “tìm ngụy mà
diệt”.
Mùa khô 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở
cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất trên chiến trường miền Nam. Qua nửa năm
chiến đấu gian khổ, quyết liệt, quân và dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công
của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch. Tháng 10/1966, đế
quốc Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm tiêu diệt chủ
lực và cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam. Dựa vào thế trận chiến tranh
nhân dân phát triển cao, lực lượng vũ trang tại chỗ của ta đã trụ bám trận địa,
tiến công rộng khắp, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở
các cuộc tiến công, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến
tranh, buộc quân Mỹ phải chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai mùa khô
1966 - 1967.
Sau những thắng lợi quan trọng của
cách mạng miền Nam, tháng 1/1968, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua Nghị
quyết của Bộ Chính trị (12/1967), quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân 1968. Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã tiến công vào
hàng loạt mục tiêu nằm sâu trong các đô thị trên toàn miền Nam, gây cho địch
thiệt hại rất nặng nề, làm đảo lộn thế trận chiến lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi
của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định
vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục
bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân về nước, chấp nhận đàm
phán với ta tại Hội nghị Paris.
Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến,
đế quốc Mỹ không cam tâm chịu thất bại, từ năm 1969, chúng chuyển sang thi hành
“Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong những năm
1969 - 1972, đế quốc Mỹ sử dụng tối đa về sức mạnh quân sự, kết hợp với những
thủ đoạn chính trị và ngoại giao hết sức xảo quyệt, hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc
kháng chiến của Nhân dân ta. Trước tình hình đó, quân và dân ta đã phối hợp chặt
chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, giành được
những thắng lợi to lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch
Đông Bắc Campuchia; đồng thời mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường
miền Nam bằng các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng ở Trị - Thiên, Bắc
Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng
sông Cửu Long, Trung Bộ.
Trước nguy cơ thất bại của chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng
lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai
(chiến dịch Linebacker I) với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần
dũng cảm và cách đánh mưu trí, sáng tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết liệt, quân
và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến Mỹ.
Trước những thất bại nặng nề, đêm
18/12/1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô
lớn nhất mang tên “Chiến dịch Linebacker II” đánh phá miền Bắc, tập trung ồ ạt
vào Hà Nội, Hải Phòng. Một lần nữa quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu,
đánh bại cuộc tập kích chiến lược của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34
chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị tổn thất lớn và không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc
phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc
đàm phán ở Paris. Dư luận thế giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Những thắng lợi to lớn của quân
và dân ta trên chiến trường miền Nam, cùng với Chiến thắng "Hà Nội -
Điện Biên Phủ trên không" đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân về nước. Tuy
nhiên, ngụy quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế
hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Để sớm kết thúc chiến tranh, theo
đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, từ cuối năm 1973 đến đầu
năm 1975, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn: Quân đoàn 1
(10/1973), Quân đoàn 2 (5/1974), Quân đoàn 4 (7/1974), Quân đoàn 3 (3/1975) và
Đoàn 232 (tương đương quân đoàn, 2/1975). Việc thành lập các quân đoàn chủ lực
đã đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm 1973 - 1974, quân
và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi quan trọng, làm cho cục diện chiến trường
tiếp tục thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm
1975 đã chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược giải
phóng miền Nam. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 4/3/1975, bộ đội ta
mở chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Sau
một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11/3/1975, quân ta
tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, giải phóng hoàn toàn tỉnh
Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên.
Sau khi chiến dịch Tây Nguyên nổ
ra được một ngày, ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị Thiên - Huế, giải
phóng tỉnh Quảng Trị, thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Phát huy thắng lợi, từ
ngày 26/3 - 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng,
bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An. Phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa
phương, bộ đội ta tiến công giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên (1/4), Khánh
Hòa (3/4)…
Từ những thắng lợi đó, Bộ Chính
trị quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Chiến dịch giải phóng
Sài Gòn được lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo:
“Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4, quân ta hình thành thế bao
vây Sài Gòn từ 5 hướng, do các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 và Sư đoàn 8
(Quân khu 8) đảm nhiệm. 17 giờ ngày 26/4, chiến dịch bắt đầu. Sau nhiều trận
chiến đấu quyết liệt đánh chiếm vòng ngoài thắng lợi, sáng 30/4, quân ta tổng
công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu
then chốt; 10 giờ 45 phút, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc
Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh
tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ của Quân Giải
phóng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử.
Song song với các cuộc tiến công
trên bộ giành thắng lợi, thực hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư
lệnh, Quân chủng Hải quân đã khẩn trương chuẩn bị lực lượng, tranh thủ thời cơ,
mưu trí, táo bạo, bất ngờ tiến công lần lượt giải phóng các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa: Song Tử Tây (14/4), Sơn Ca (25/4), Nam Yết (27/4), Sinh Tồn (28/4),
Trường Sa (29/4). Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, góp phần giữ vững chủ
quyền quốc gia ở quần đảo Trường Sa.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch
hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu
bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội ta cả về tổ chức lực lượng và trình độ
chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự
Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

4. Quân đội nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2024)
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, các đơn vị Quân đội đứng chân trên các vùng mới
được giải phóng đã phối hợp với Ủy ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng,
củng cố chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang địa phương; tổ chức cải tạo binh lính cảnh sát của bộ máy chính quyền
cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động,… Đồng thời, các đơn vị đã tích cực
tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, tham gia xây dựng nhiều công
trình trọng điểm trên mọi miền đất nước.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Quân
đội ta lại phải tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ biên giới Tây Nam
của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trước
hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận
Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng
vũ trang cách mạng Campuchia đã thực hiện cuộc phản công, tiến công mạnh mẽ,
đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh vào ngày
07/01/1979, tiến tới giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia. Trong 10 năm (1979
- 1989), Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã phát huy tinh thần quốc tế
trong sáng, cùng quân dân Campuchia truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính
quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, hồi sinh đất nước.
Cũng đầu năm 1979, quân và dân ta
phải chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Cuộc chiến đấu diễn ra
trong thời gian ngắn (17/2 - 6/3/1979), nhưng trên thực tế tình hình biên giới
phía Bắc căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Trong cuộc chiến
đấu này, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên
giới, lãnh thổ của Tổ quốc.
Thắng lợi của quân và dân ta
trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
phía Bắc của Tổ quốc có ý nghĩa lịch sử rất to lớn, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo môi trường hòa
bình để phát triển đất nước.
Trong những năm 1980 - 1986, Quân
đội ta đã đẩy mạnh công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giáo dục - đào tạo,
xây dựng nền nếp chính quy; tích cực tham gia xây dựng kinh tế, xã hội. Toàn
quân đã tổ chức hàng trăm cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy
mô lớn với nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại trên các địa bàn chiến lược, góp phần
rèn luyện, nâng cao khả năng tổ chức chỉ huy của cán bộ và trình độ sẵn sàng
chiến đấu của bộ đội.
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
(12/1986) đến nay, Quân đội cùng toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gần 40 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, Quân đội luôn thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội
quân công tác, đội quân lao động sản xuất, đóng góp xứng đáng vào thành tựu
chung của đất nước. Nổi bật là:
- Quân đội thường xuyên nắm chắc
và dự báo đúng tình hình, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước đề ra đối sách
phù hợp, xử lý linh hoạt, thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ về
chiến lược, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm sự ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội. Tham mưu ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, các chiến
lược, dự án luật, đề án về quân sự, quốc phòng. Phát huy tốt vai trò nòng cốt,
chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng
dân” và khu vực phòng thủ vững chắc.
- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng
huấn luyện chiến đấu với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: “Huấn luyện là
nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường xuyên trong thời bình”. Trên cơ sở đó,
toàn quân đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn
tập; bám sát phương châm “Cơ bản - Thiết thực - Vững chắc”, coi trọng huấn luyện
đồng bộ và chuyên sâu, theo hướng hiện đại, nâng cao sức cơ động chiến đấu của
bộ đội, đáp ứng với các hình thái chiến tranh mới. Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và
tổ chức thành công nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng
quy mô lớn, khẳng định sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của
Quân đội, được Đảng và Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao.
- Toàn quân thường xuyên duy trì
nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc, đánh giá, dự báo đúng tình
hình, nhất là tình hình trên không, trên biển, biên giới, nội địa, ngoại biên,
không gian mạng, kịp thời xử trí khi có tình huống, không để bị động, bất ngờ.
Chủ động và kiên quyết đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại
của các thế lực thù địch. Phối hợp với các lực lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối
các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước.
- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai nhiều giải pháp thiết thực xây
dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu của Quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội và các cấp ủy, tổ chức
đảng trong toàn quân trong sạch, vững mạnh tiêu biểu gắn với xây dựng các cơ
quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Triển khai có hiệu quả
chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh; tổ chức thực hiện tốt công tác hậu
cần, kỹ thuật và các mặt công tác khác. Đặc biệt, công nghiệp quốc phòng được
phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng; đã nghiên cứu làm chủ công nghệ chế
tạo và sản xuất được một số vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại mang thương
hiệu Việt Nam. Công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đạt nhiều kết quả
nổi bật trên cả bình diện song phương và đa phương; tích cực tham gia các hoạt
động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ
thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
- Thực hiện chức năng đội quân
công tác, Quân đội đã có những đóng góp quan trọng trong thực hiện công tác dân
vận; tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động cách mạng, nhiệm vụ chính trị của địa phương; tham gia
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tích cực giúp Nhân dân xóa đói, giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không quản
ngại gian khổ, hy sinh, xung kích trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu nạn,
cứu hộ, để bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân; nhiều cán bộ, chiến sĩ đã
ngã xuống trong thực hiện nhiệm vụ cao cả này. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội
luôn có mặt ở những nơi xung yếu, hiểm nguy để giúp đỡ Nhân dân ứng phó với
thiên tai, dịch bệnh đã làm ngời sáng thêm bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, được
Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng, đánh giá cao.
- Thực hiện chức năng đội quân
lao động sản xuất, Quân đội đã tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành
các cơ chế, chính sách phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế, xã hội gắn với
củng cố quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới; xây dựng và phát huy hiệu quả
các khu kinh tế - quốc phòng trong tham gia phát triển kinh tế, xã hội gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược, đặc biệt khó khăn, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Các doanh nghiệp quân đội được tổ chức, sắp
xếp phù hợp với yêu cầu đổi mới qua từng thời kỳ, vừa phục vụ tốt nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng, vừa góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Các đơn vị đã tham gia
xây dựng nhiều công trình trọng điểm quốc gia, công trình hạ tầng phục vụ dân
sinh, đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân, bảo đảm an sinh xã hội; tham gia
thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia gắn với thực hiện nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng. Toàn quân đã chú trọng tăng gia sản xuất, góp phần cải thiện
đời sống của bộ đội.
5. Truyền thống vẻ vang của
Quân đội nhân dân Việt Nam
Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu,
chiến thắng và trưởng thành, Quân đội ta đã xây đắp nên truyền thống rất vẻ
vang, được khái quát cô đọng trong lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[7]. Truyền thống đó được thể hiện:
- Trung thành vô hạn với Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Quyết chiến, quyết thắng, biết
đánh và biết thắng.
- Gắn bó máu thịt với Nhân dân,
quân với dân một ý chí.
- Đoàn kết nội bộ; cán bộ, chiến
sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu, giúp đỡ nhau, trên dưới đồng
lòng, thống nhất ý chí và hành động.
- Kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
- Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,
cần, kiệm xây dựng Quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công.
- Lối sống trong sạch, lành mạnh,
có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan.
- Luôn luôn nêu cao tinh thần ham
học hỏi, cầu tiến bộ, ứng xử chuẩn mực, tinh tế.
- Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy
chung, chí nghĩa, chí tình.

II. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY HỘI
QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
1. Lịch sử Ngày hội Quốc phòng
toàn dân
Quốc phòng toàn dân là nền quốc
phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng:
toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành của Nhà nước, do Nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn
định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ
của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”[8].
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán
khẳng định, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân là nòng cốt. Nền quốc phòng của Việt Nam là nền quốc phòng mang
tính chất hòa bình, tự vệ và mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt
Nam xây dựng sức mạnh quân sự, quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của
lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận
an ninh nhân dân. Đảng, Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế, xã hội gắn với
tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc
phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta, nhất là các cuộc khởi nghĩa, các cuộc chiến tranh giải
phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc do Nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã chứng minh sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kỳ
giai đoạn nào, phải đương đầu với kẻ thù hung bạo đến đâu, nếu cổ vũ, động
viên, quy tụ được sức mạnh toàn dân thì dân tộc ta đều giành thắng lợi vĩ đại,
bảo đảm sự bền vững của độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Xuất phát từ vai trò của công tác
tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, đồng thời thể theo nguyện vọng của quân và dân cả nước, ngày
17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng khóa VI đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết
định lấy ngày 22/12 - Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam là Ngày hội Quốc
phòng toàn dân. Ngày 22/12/1989, lần đầu Ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ
chức tại tất cả các địa phương trong cả nước. Từ đó đến nay, ngày 22/12 đã trở
thành ngày hội lớn của toàn dân tộc với các hoạt động hướng vào chủ đề quốc
phòng và quân đội.
.jpg)
2. Ý nghĩa của Ngày hội Quốc
phòng toàn dân
Lấy ngày 22/12 là Ngày hội Quốc
phòng toàn dân là sự kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc giữ nước của dân tộc
ta qua các giai đoạn lịch sử; là chủ trương lớn, quan trọng của Đảng, Nhà nước;
tiếp tục khẳng định quan điểm toàn dân tham gia xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Đây thực sự là
ngày hội của truyền thống dựng nước và giữ nước, ngày hội tôn vinh và nhân lên
hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam
trong thời đại mới.
Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp
để tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất
cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; từ đó
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn dân trong tham gia xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, tăng
cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, cổ vũ, động viên toàn dân chăm lo xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trên từng địa phương, xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh trong tình hình mới.
Hằng năm, toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta đã có rất nhiều hoạt động phong phú, sáng tạo để tổ chức kỷ niệm
Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và Ngày hội Quốc phòng toàn dân, như:
Mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân - dân, ngày hội văn hóa quân - dân,
tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục với nội dung, hình thức phong phú,
đa dạng; tổ chức gặp mặt, giao lưu, nói chuyện truyền thống, thăm hỏi động viên
các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, các gia đình liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh; giao lưu văn hóa, văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao, hội thao
quân sự trong lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại
đoàn kết tặng các đối tượng chính sách; tham gia xây dựng, tu sửa, tôn tạo,
nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm, đền thờ liệt sĩ; tổ chức dâng
hương, tri ân các anh hùng, liệt sĩ...
Các cấp, các ngành, cấp ủy và
chính quyền các địa phương đã chú trọng đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản
xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, gắn với xây dựng
và phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh qua các chương trình, các dự án phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương; tuyên truyền, vận động quần chúng Nhân dân
tích cực tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững
mạnh. Thông qua đó, “thế trận lòng dân” ngày càng được củng cố vững chắc, góp
phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường;
thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an
ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững
chắc”[9].

III. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH
HÌNH MỚI
Trong những năm tới, tình hình thế
giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác, phát
triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức.
Các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh quyết liệt; tăng cường điều
chỉnh chiến lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng. Nhiều điểm nóng, xung đột tiếp tục
tồn tại, có nguy cơ lan rộng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát
triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự
xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại, nhiều hình
thái chiến tranh mới làm thay đổi môi trường chiến lược. Các thách thức an ninh
phi truyền thống ngày càng gay gắt, tác động tiêu cực đến sự tồn tại, phát triển
bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ở trong nước, mặc dù đạt được nhiều
thành tựu về kinh tế - xã hội, kinh tế vĩ mô bảo đảm ổn định nhưng chưa thật sự
vững chắc; tiềm lực đất nước tiếp tục được tăng cường, uy tín, vị thế trên trường
quốc tế được nâng cao, song cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng
ta xác định vẫn còn hiện hữu; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tình trạng
tham nhũng chưa được đẩy lùi; sự xuống cấp của một số giá trị văn hóa và đạo đức,
những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội còn diễn biến phức tạp. Tranh chấp chủ
quyền trên Biển Đông còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Các thế lực thù địch,
phản động tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với âm mưu, thủ đoạn
ngày càng công khai, trực diện và tinh vi hơn.
Tình hình đó đặt ra những khó
khăn, thách thức mới đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc trong những năm tới; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải
phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa
và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an
toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy những bài học kinh nghiệm
quý báu trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, trong lịch sử xây dựng,
chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng ta tiếp tục giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản
lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và sự nghiệp củng
cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả đường
lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; khơi dậy và phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa tốt đẹp, sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tăng cường xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với nhiệm vụ tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng;
chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng của
cách mạng Việt Nam, đường lối, quan điểm của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, bồi dưỡng ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác
cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Chú trọng xây dựng tiềm lực, lực
lượng, thế trận quốc phòng, nâng cao tính bền vững và khả năng huy động đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng trong các tình huống. Xây dựng khu vực phòng thủ
các cấp vững chắc, tạo thế bố trí phòng thủ liên hoàn trên từng địa bàn và phạm
vi cả nước. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối
ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá,
xã hội và đối ngoại theo đúng quan điểm chỉ đạo: “Phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng
tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng
tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh,
tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ. Điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với
bố trí lại lực lượng và nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn
nhân lực chất lượng cao trong Quân đội. Giữ vững và phát huy truyền thống vẻ
vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” và nghệ thuật quân sự Việt
Nam; thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân
lao động sản xuất”; sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ứng phó các mối đe dọa an ninh phi truyền thống;
nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh không gian mạng, chiến tranh thông
tin. Đồng thời, quan tâm, chăm lo thực hiện tốt chính sách đối với Quân đội và
chính sách hậu phương quân đội.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả công
tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo tinh thần Kết luận số 53 ngày
28/4/2023 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW ngày 26/2/2024 của
Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và
những năm tiếp theo. Quán triệt và thực hiện tốt phương châm “tích cực, chủ
động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” trong hội nhập quốc
tế và đối ngoại quốc phòng, kiên định chính sách quốc phòng “Bốn không” của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế (không tham gia liên minh quân sự, không liên
kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt
căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Từ đó, tranh thủ
tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tăng cường lòng tin chiến lược,
giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, góp phần bảo vệ Tổ quốc
“từ sớm, từ xa”.
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để
chúng ta ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, bản chất, truyền thống tốt đẹp,
những chiến công oanh liệt của Quân đội và nhân dân ta; qua đó, khơi dậy niềm tự
hào, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thử
thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng Quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong những năm tới theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG
CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 2, Sđd, tr. 95.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 356.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 357.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 18, Sđd, tr. 287.
[6] Số quân Mỹ được đưa vào miền Nam Việt
Nam: tháng 4/1965: 18.000 quân; tháng 7/1965: 81.000 quân; tháng 12/1965:
181.000 quân; tháng 12/1966: 376.000 quân; tháng 12/1967: 480.000 quân; tháng
4/1968: 543.000 quân (Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 312).
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 435.
[8] Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách
khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 848.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, hà Nội, 2011, tr. 68.