Thời gian qua, các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng ra sức chống phá Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà chúng ta đang xây dựng nhằm thực
hiện mưu đồ “chuyển hóa” về nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta. Một trong những nội dung mà các thế lực này xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ
nhiều nhất là những vấn đề liên quan đến CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam hòng “hướng lái” hệ thống chính trị của nước ta theo hướng phát triển của
các nước tư bản chủ nghĩa. Do đó, cần nhận diện rõ luận điệu sai trái của các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị để có những luận cứ đấu tranh phản
bác xác đáng, thuyết phục. Các quan điểm sai trái, thù địch tập trung vào những
khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, xuyên tạc CNXH, cho rằng chủ nghĩa xã hội là
bước thụt lùi của lịch sử, một xã hội mà lợi ích cá nhân, lợi ích của con người
hoàn toàn không có.
Thứ hai, xuyên tạc CHXH ở
Việt Nam, cho rằng Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với quy luật,
là duy ý chí nên chỉ thất bại – thực sự Việt Nam đang đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa và trá hình chủ nghĩa xã hội
Thứ ba, xuyên tạc mục
tiêu, lý tưởng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cho rằng chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta hiện nay không còn phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử nhân loại.
Ngày 16/5/2021, GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố bài viết "Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, bài viết của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và
cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Trên cơ sở phân tích về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ta hiện nay, những nội dung trong bài
viết của Tổng bí thư là luận cứ vững chắc phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ta hiện nay
1. Luận cứ phản
bác quan điểm cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa là bước thụt lùi của lịch sử, là
xã hội mà lợi ích cá nhân, lợi ích của con người hoàn toàn không có.
Bằng kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, “chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập
cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho
tất cả mọi người, cho các dân tộc”.
Ngay trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt
Nam xây dựng có 8 đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam
đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Với tám đặc trưng
này, chứng tỏ chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu xây
dựng "một xã hội mà trong đó sự
phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và
chà đạp lên phẩm giá con người. Mô hình chủ nghĩa xã hội này cũng chính là xã hội
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của
toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người…".

Tổng Bí thư khi nói về những thành tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã
minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính
đáng của từng người dân, vì nó đã “… đem
lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế
phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh liên tục;
đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị,
xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm…; thế và lực của quốc gia được
tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”.
Xét trên nhiều phương diện, có thể thấy “người
dân Việt Nam ngày càng có điều kiện sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước
đây”. So với nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế, chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam cao hơn khá nhiều. Trong đại dịch
COVID-19, những thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe,
phát triển kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại phía sau”. Chúng ta
không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tốt
hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Mặc dù, vẫn còn những
hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chính
đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết quả đạt được trên thực tế trong những
năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì
con người, “Chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà
bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế
đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách
giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh
tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và
các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo
đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không
phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy
hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải
chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những
giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định,
kiên trì theo đuổi” như trong bài viết của Tổng Bí thư đã nêu.
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm
trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”.

2. Luận cứ phản
bác quan điểm cho rằng Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với quy luật, là duy ý chí nên chỉ
thất bại – thực sự Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và trá hình
chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa Mác-Lênin
chỉ rõ: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các
quốc gia”. Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, bằng con đường nào
thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”. Phải kết hợp tính phổ biến
và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
là một tất yếu nhằm chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống
tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có
điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.
Do vậy, Việt Nam đi
lên chủ nghĩa xã hội “nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”, như ý kiến
của đồng chí Tổng Bí thư là hoàn toàn chính xác.
Đồng thời, đi lên
chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” cũng là phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử loài người, không phải là “dị biệt”. Tuy nhiên, phải hiểu
đầy đủ, thực chất của nội dung “…bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, là bỏ qua cái
gì, không bỏ quá cái gì. Điều này ở Việt Nam chỉ thực sự được làm rõ trong thời
kỳ đổi mới.
Tại Đại hội lần thứ
IX, lần đầu tiên, Đảng ta có quan điểm mới, rõ ràng về vấn đề “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa”. Đảng ta đã đưa ra nội hàm rất cụ thể, rõ ràng về việc “bỏ
qua”: “Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất của xã hội trên
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ”.
Bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”.
Nghĩa là không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản “giữ vị trí thống trị”.
Có như vậy, mới khắc phục được “tình trạng
áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư, tật xấu, những
thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa”,
như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.
“Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy,
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chứ “không
phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”.
Tuy nhiên, phần là
do mơ hồ về nhận thức, song cũng phần lớn do có tư tưởng chống phá, nhiều đối
tượng đã cố tình bóp méo, xuyên tạc về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam. Vì vậy, Tổng Bí thư đã khẳng định rõ ràng thêm: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công,
bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế
chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả
những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát
triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có
chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Luận điểm này không chỉ
tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn quan điểm của Đảng ở Đại hội IX mà đề ra nguyên
tắc quan trọng trong việc kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong
xây dựng ở Việt Nam. Đó là phải dựa trên quan điểm khoa học và phát
triển.
3. Luận cứ phản
bác quan điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ta hiện nay là không còn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử
nhân loại
Trong bài viết của Tổng Bí thư có chỉ rõ:"Đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".
Đây là luận điểm hết sức khoa
học, bởi vì, cả về lý luận và thực tiễn đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội và sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Trước hết, chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cao cả
là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện
để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự
do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất
công, một xã hội thực sự vì con người. Là một xã hội như Tổng Bí thư đã viết: “… phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị
tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống
trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”.
Rõ ràng, đây là những
khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà là của cả nhân
loại.
Thứ hai, thực tiễn
lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu
tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của
các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc - tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm
cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hõi”. Ngay trong bài của
Tổng Bí thư cũng đã viết: “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc sống
tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân. Thực tiễn Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng
sản, có Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhất là 35 năm đổi mới đã chứng minh điều
này”.
Thứ ba, hiện nay,
chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt được những thành
tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở
hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so với
trước đây. Tuy nhiên, như ý kiến của Tổng Bí thư, “chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn
có của nó”, do vậy các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra. Chẳng
hạn là khủng hoảng trong việc giải quyết dịch bệnh COVID–19 hiện nay đang làm
trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, biểu
tình, bãi công… không chỉ ở thế giới tư bản, mà còn đặt ra nhiều thách thức vô
cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Chắc chắn đây không
phải là chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương
lai của nhân loại. Nhân dân Việt Nam cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.
Cuối cùng, thực tiễn
35 năm đổi mới đất nước, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực, có thể
nói, “xét trên nhiều phương diện, người
dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào
trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn
giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng
mức phát triển kinh tế”.
Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý rằng, do điểm xuất phát và hoàn cảnh đi lên chủ nghĩa xã hõi của nước ta
có rất nhiều khó khăn, đặc thù, do vậy, cần có sự nỗ lực, quyết tâm rất lớn của
toàn Đảng, toàn dân và cần có một thời gian quá độ không ngắn, mới có thể đạt tới
xã hội xã hội chủ nghĩa như mong muốn.
2. Luận cứ phản
bác quan điểm cho rằng Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với quy luật, là duy ý chí nên chỉ
thất bại – thực sự Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và trá hình
chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa Mác-Lênin
chỉ rõ: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các
quốc gia”. Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, bằng con đường nào
thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”. Phải kết hợp tính phổ biến
và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
là một tất yếu nhằm chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống
tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có
điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.
Do vậy, Việt Nam đi
lên chủ nghĩa xã hội “nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”, như ý kiến
của đồng chí Tổng Bí thư là hoàn toàn chính xác.
Đồng thời, đi lên
chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” cũng là phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử loài người, không phải là “dị biệt”. Tuy nhiên, phải hiểu
đầy đủ, thực chất của nội dung “…bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, là bỏ qua cái
gì, không bỏ quá cái gì. Điều này ở Việt Nam chỉ thực sự được làm rõ trong thời
kỳ đổi mới.
Tại Đại hội lần thứ
IX, lần đầu tiên, Đảng ta có quan điểm mới, rõ ràng về vấn đề “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa”. Đảng ta đã đưa ra nội hàm rất cụ thể, rõ ràng về việc “bỏ
qua”: “Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất của xã hội trên
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ”.
Bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”.
Nghĩa là không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản “giữ vị trí thống trị”.
Có như vậy, mới khắc phục được “tình trạng
áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư, tật xấu, những
thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa”,
như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.
“Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy,
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chứ “không
phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”.
Tuy nhiên, phần là
do mơ hồ về nhận thức, song cũng phần lớn do có tư tưởng chống phá, nhiều đối
tượng đã cố tình bóp méo, xuyên tạc về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam. Vì vậy, Tổng Bí thư đã khẳng định rõ ràng thêm: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công,
bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế
chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả
những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát
triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có
chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Luận điểm này không chỉ
tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn quan điểm của Đảng ở Đại hội IX mà đề ra nguyên
tắc quan trọng trong việc kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong
xây dựng ở Việt Nam. Đó là phải dựa trên quan điểm khoa học và phát
triển.
Có thể nói, những
luận điệu của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận và đi đến mục đích xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ngày càng tinh vi, với nhiều giọng điệu dễ
thuyết phục những người mơ hồ về lý luận, những kẻ bất mãn chế độ... Nhận diện
rõ những luận điệu sai trái đó, thực hiện phản bác trên cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, chúng ta tiếp tục khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại là cách thức đấu tranh hiệu quả
nhất để đập tan những âm mưu của các phần tử phản động này./.