Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương, năm
1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965 Bác viết
bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật" gồm ba trang, do chính Bác
đánh máy, ở cuối đề ngày 15/5/1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của
Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu
trang viết tay. Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc
riêng" đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những
đoạn nói về những công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của Nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình
liệt sĩ, thương bệnh binh, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố
và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng,
chuẩn bị thống nhất đất nước.
Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di
chúc, gồm một trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19/5/1969,
Bác còn tiếp tục sửa chữa bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ
ngày 19/5/1969, là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần cuối
cùng tất cả các bản Di chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong bì và
cất đi…
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được
công bố trong Lễ tang của Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22
cm. Ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW về một số vấn đề
liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di
chúc công bố chính thức năm 1969 bảo đảm trung thành với bản gốc của Người. Nội
dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản
viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những
lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa
được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp
một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã
quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.

Di
chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi
không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn
nữa, nhiều hơn nữa”.
Ý
chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Nhân dân của Người
thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống
nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở.
Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến
dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và Nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước
anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
Trong
Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng
được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và gắn bó máu thịt với Nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng
Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu
cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ Nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên.
Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ
vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
Sự
nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và
chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới
thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”, đó là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu
nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cách
mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh của Đảng còn
được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè
bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn
định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết
quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
có lý có tình”.
Di
chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng
và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong
xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực
lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân
là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
Di
chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự
nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội,
như đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sửa đổi chế
độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới, khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế,
phát triển công tác vệ sinh, y tế, chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông
dân, chính sách xã hội, công bằng xã hội...
Giá
trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá
Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong
toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn
hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân,
vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục Nhân dân. Qua lời dặn dò về
việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn
hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, môi trường sinh thái.
Di
chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc
đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một công việc cực kỳ
to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của Nhân dân.
Theo
Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải
đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn dân, tổ
chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”

Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh những tinh
hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ
Chí Minh, vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam hôm nay và
tương lai.
Các
bài học qua 55 năm thực hiện Di chúc (1969-2024) vẫn còn nguyên giá trị và tiếp
tục phát huy trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là, bài học về tinh thần lạc
quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của Đảng; bài học về sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng; bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình; bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ,
những chủ nhân tương lai của đất nước; bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao
đời sống của Nhân dân; bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng.
55
năm thực hiện Di chúc của Người và sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng
ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Nhờ
thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên
tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung
bình gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng
430 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35
trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần,
lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập
thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030
(khoảng 7.500 USD).
Từ
một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm
được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản
khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp và dịch vụ phát triển khá nhanh, liên
tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 88% GDP.
Việt
Nam có gần 80% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát
triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam
là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên
kỷ. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc
nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển
cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137
quốc gia được xếp hạng.
Việt
Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và
phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng
gần 20 lần trong gần 40 năm qua; có gần 99% số người lớn biết đọc, biết viết.
Diện bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đến nay đã đạt mức 93,35% (năm 1993 mới
chỉ là 5,4%); y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có
hoàn cảnh khó khăn được tăng cường...
Tình
hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2024 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt
nhiều kết quả tốt hơn cùng kỳ năm 2023 trên các lĩnh vực. FDI thực hiện đạt
6,28 tỷ USD, tăng 7,4%, cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Du lịch tiếp tục phục
hồi nhanh. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tăng 8 bậc, xếp thứ
107/193. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143. Các hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, toàn diện, là điểm sáng ấn
tượng.
Những
thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình
nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
55
năm đã qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đồng hành cùng dân tộc, đã
truyền cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ý chí quyết tâm sắt đá, niềm tin
mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của chính nghĩa và
chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy thành tựu đã đạt được,
trong thời gian tới để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước đến năm
2025 và năm 2030, xây dựng một nước việt nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn
hiến và anh hùng, chúng ta cần phải:
Trước hết, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển đất nước
Những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của
cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng,
lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Đại
hội XIV của Đảng là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của đất nước
ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai; tiếp tục kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành
lập Đảng: Nước ta sẽ là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao.
Thứ hai, đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, đề cao trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên
Công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian tới cần phải được triển
khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết
trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng,
thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế
kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo
phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Kiên trì, kiên quyết
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng,
hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để "không thể, không dám, không
muốn tham nhũng".
Thứ ba, xây dựng
và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước
Các
văn kiện của Đảng, nhất là nghị quyết từ Đại hội Đảng lần thứ IX đến lần thứ
XIII đều khẳng định văn hóa là nền tảng xã hội, xác định “Xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Văn hóa được
xác định “là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực
hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, các cấp ủy đảng, chính quyền cần quan tâm
hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, để văn hóa phát triển hài hòa
và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; kế thừa và phát huy
những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những giá
trị tinh hoa của nhân loại, làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa giữ được cốt cách,
bản sắc và “chất văn hóa” của truyền thống dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi
thở của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn minh
mà nhân loại, hướng đến chân - thiện - mỹ, vì sự hoàn thiện nhân cách và xây dựng
con người Việt Nam.
Thứ tư, chăm lo,
bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ: “giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước,
với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện
để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị
thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo,
khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại,
phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Cấp ủy,
chính quyền, các tổ chức cơ sở Đoàn tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò
xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên, tạo môi trường thuận
lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ
sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Thứ năm, tăng cường
đoàn kết quốc tế, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế Việt Nam trong hội
nhập quốc tế
Thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản
sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Nắm chắc những quan điểm mới về
ngoại giao nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng là: Ngoại giao là
một “mặt trận”, giữ vai trò “tiên phong”, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi
để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam; ngăn ngừa
nguy cơ xung đột, chiến tranh, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”.
Trong
thời gian tới, trước tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường, chúng ta
cần chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được
chủ quan, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước
láng giềng theo đúng tinh thần là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm với tất
cả các nước trong cộng đồng quốc tế; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời
cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của
thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ
động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh
đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết,
trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết,
tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể đem lại.

Toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày thành
lập Đảng, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu: phấn đấu đưa
nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước Việt Nam ta
ngày càng "cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc", vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Kỷ
niệm 55 năm ngày Bác đi xa là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự
soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh lãnh đạo
khối đại đoàn kết toàn dân "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh" như ý nguyện của Người.