Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong nhiều tác phẩm, từ dạng khởi đầu trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 như là tiền đề để C.Mác phát triển, sáng tạo ra phương pháp duy vật lịch sử với tư cách là phương pháp luận cho mọi luận giải khoa học và phân tích các hiện tượng xã hội trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức đánh dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành triết học C.Mác, cho đến tác phẩm được coi là bách khoa toàn thư của Chủ nghĩa Mác là tác phẩm Chống Đuyrinh được xem là sách giáo khoa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về ba bộ phận cấu thành không thể tách rời: Triết học duy vật biện chứng, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Vấn đề được C.Mác và Ăngghen trình bày rõ nét trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Thông qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Tuyên ngôn Đảng Cộng sản đã trình bày một cách logic, sáng rõ những vấn đề cơ bản nhất của Chủ nghĩa Mác. Xuất phát từ nghiên cứu về phương thức sản xuất của xã hội, Tuyên ngôn Đảng Cộng sản trình bày đầy đủ, rõ ràng các quy luật của lịch sử loài người, trong đó có học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội (sau đây viết gọn là Học thuyết), cũng như các quy luật phát triển của xã hội loài người, chỉ ra sự vận động của lịch sử tất yếu sẽ cho ra đời một chế độ xã hội mới - Cộng sản chủ nghĩa, với chủ thể đóng vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử là giai cấp công nhân.
1. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
Xuất phát từ tiền đề đầu tiên của lịch sử là những con người cụ thể, "đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ, và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra" [04, tr.28-29], C.Mác đã khám phá ra một chân lý hiển nhiên là trong đời sống vật chất, con người có nhiều hoạt động, nhưng hoạt động đầu tiên phải là hoạt động để duy trì sự sống của con người. Nghĩa là con người trước hết phải lao động sản xuất để tạo ra thức ăn, nhà ở, nước uống, quần áo,v.v.. trước khi có những hoạt động khác - tất yếu là hành động sản xuất ra của cải vật chất. Chính trong quá trình sản xuất vật chất đã buộc những con người, dù có nguyện vọng khác nhau đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, mà trước hết là quan hệ với nhau trong sản xuất vật chất. Theo đó, sự vận động của nền sản xuất vật chất lại quy định diện mạo và sự vận động của các quan hệ xã hội. Với quan điểm đó, Học thuyết đã đi đến kết luận rằng sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội, là cơ sở của tính thống nhất, tính chỉnh thể của xã hội. Nghiên cứu lịch sử trước hết phải xuất phát từ cơ sở thực tại đó.
Cơ sở thực tại đó là do con người tham gia vào và tạo ra. Tuy nhiên, con người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và đồng thời là vào các quan hệ xã hội (QHXH), không phải với tư cách là những cá nhân trừu tượng mà với tư cách là những cá nhân hiện thực đã đạt đến một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Các mối QHXH, trước hết là quan hệ sản xuất (QHSX), cũng do con người tạo ra, nhưng không phải tạo ra một cách tùy tiện mà là trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất (LLSX). Đến lượt mình, các QHXH lại quy định nhu cầu của con người và sự vận động của nền sản xuất.
Với lập luận đó, Học thuyết đã chỉ rõ nhân tố cốt lõi, quyết định trong nền sản xuất vật chất của xã hội là phương thức sản xuất (PTSX) với hai mặt gắn bó hữu cơ là LLSX và QHSX. C.Mác nghiên cứu sâu sắc hơn các mặt của phương thức sản xuất và đã chỉ rõ giữa LLSX và QHSX luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó LLSX bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển của QHSX và QHSX có sự tác động trở lại LLSX.
Do sự vận động của lực lượng sản xuất, một khi đạt đến trình độ mới, nó sẽ mâu thuẫn với những QHSX hiện đang tồn tại và dù sớm hay muộn, mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới cao hơn, phù hợp với trình độ đã phát triển của LLSX. Khi đó cũng có nghĩa là PTSX cũ sẽ bị thay thế bởi một PTSX mới cao hơn. Cứ như vậy, PTSX mới tới một chừng mực nào đó, lại bị thay thế bởi một PTSX cao hơn nữa... Đó chính là quy luật phát triển phổ biến của lịch sử xã hội. C.Mác khẳng định: “Những QHXH đều gắn liền mật thiết với những LLSX. Do có được những LLSX mới, loài người thay đổi PTSX của mình và do thay đổi PTSX của mình, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những QHXH của mình” [05, tr.187].
Không dừng lại ở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sâu sắc hơn về quy luật bằng các tiếp tục xem xét sự tác động của nó trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Các ông đã chỉ rõ rằng trong các xã hội có đối kháng giai cấp thì việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX vẫn là nguyên nhân sâu xa quyết định sự thay thế PTSX và sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong các xã hội đó, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX bao giờ cũng được giải quyết thông qua mâu thuẫn giai cấp, qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Các ông viết: “Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn ấy giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước đến nay, song vẫn không làm biến đổi cơ sở cơ bản của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang những hình thức phụ khác như: sự tổng hợp của những xung đột, những sự va chạm giữa các giai cấp khác nhau, sự mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị,v.v...” [04, tr.107].
Từ nghiên cứu về PTSX, các ông chỉ rõ bất kỳ xã hội cụ thể nào cũng có những QHSX hợp thành cơ sở kinh tế (CSKT) của xã hội đó và tương ứng với nó là một kiến trúc thượng tầng (KTTT) xã hội phù hợp. KTTT là một khái niệm có nội dung rộng lớn bao quát các tư tưởng xã hội, các thể chế xã hội và mối quan hệ qua lại giữa chúng. KTTT bao giờ cũng được hình thành trên một cơ sở hiện thực, đó là CSHT của xã hội. Xem xét quan hệ giữa CSHT và KTTT, Học thuyết đã chỉ ra rằng: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định" [07, tr.15].
Như vậy theo quan niệm Học thuyết thì giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó CSHT bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên cần phải nói thêm rằng luận điểm về vai trò quyết định của cơ sở kinh tế, mà sau này C.Mác và Ph.Ăngghen đã lưu ý, phải được hiểu là "xét cho đến cùng" chứ không phải là tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế mà không thấy vai trò to lớn của các nhân tố trong KTTT. Các nhân tố trong KTTT có tính độc lập tương đối và luôn luôn có sự tác động trở lại tới sự vận động của cơ sở kinh tế.
Học thuyết là khái niệm bao quát các xã hội cụ thể ở những mặt cơ bản nhất là LLSX, QHSX và KTTT, ở những quy luật cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ LLSX và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT với KTTT.
Do sự tác động của các quy luật khách quan, trong đó quyết định nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, mà các Hình thái kinh tế - xã hội vận động như một quá trình lịch sử tự nhiên. Tức là xuất phát từ sự vận động của LLSX, khi đạt tới một trình độ mới, sẽ làm thay thế quan hệ sản xuất hiện tồn đã trở thành lạc hậu bằng một quan hệ sản xuất mới cao hơn và khi có quan hệ sản xuất mới, nó sẽ tác động làm cho KTTT xã hội mới ra đời phù hợp. Khi đó cũng có nghĩa một Hình thái kinh tế - xã hội cao hơn đã bắt đầu xuất hiện.
Như vậy, có thể thấy Học thuyết là một học thuyết hoàn chỉnh, đưa lại một cách tiếp cận về xã hội hoàn toàn mới. Sự ra đời của học thuyết đã đưa lại một thế giới quan và phương pháp luận mới, mang bản chất khoa học và cách mạng trong nhận thức và cải tạo xã hội.
2. NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
Học thuyết có một giá trị khoa học và cách mạng sâu sắc gắn liền với nhau, không thể tách bạch bao hàm nhiều vấn đề, song có thể nhận thức giá trị của nó ở những điểm chính.
Một là: Học thuyết đã đưa lại một cách tiếp cận khoa học và cách mạng trong nhận thức về xã hội.
Xuất phát từ tiền đề hiện thực, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét vai trò của nền sản xuất xã hội, chỉ ra cơ cấu cơ bản và phổ biến của nó, chỉ ra những quan hệ tất yếu, những quy luật chi phối sự vận động của nó. Ở đây các ông đã rút ra những kết luận khoa học về vai trò của các yếu tố lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm về vai trò nền tảng của nền sản xuất vật chất, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục xem xét quan hệ của nó tới các mặt khác của xã hội, chỉ ra vai trò của các nhân tố trong kiến trúc thượng tầng xã hội và quan hệ biện chứng giữa các nhân tố đó với cơ sở kinh tế như những mặt cơ bản của Hình thái kinh tế - xã hội và các quy luật cơ bản chi phối sự vận động phát triển của nó. Những phát hiện đó đã cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng nên một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh, phản ánh quan hệ nội tại giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và đời sống chính trị, tư tưởng để từ đó chỉ ra kết cấu và các quy luật chung của sự vận động xã hội. Hệ thống quan điểm hoàn chỉnh đó đã đem lại một quan niệm mới trong nghiên cứu xã hội là xem xét xã hội như một chỉnh thể, một hệ thống toàn vẹn của các lĩnh vực và các quan hệ xã hội.
Có thể nói rằng chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã là người đầu tiên đưa ra một phương pháp tiếp cận hoàn toàn mới, có tính cách mạng về xã hội, vượt lên mọi tư tưởng đương thời. Phương pháp mới đó đòi hỏi phải nhận thức xã hội trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Tức là xem xét xã hội phải xuất phát từ những cơ sở vật chất hiện thực của nó. Trên cơ sở đó mà đánh giá đúng vị trí, vai trò của các nhân tố, liên hệ đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Ngày nay có những quan điểm phản đối C.Mác, phủ nhận lý luận Hình thái kinh tế - xã hội, nhưng thực ra vẫn không vượt ra ngoài khuôn khổ tiếp cận mà C.Mác đã vạch ra. Chẳng hạn tác giả của phương pháp tiếp cận bằng các nền văn minh phê phán học thuyết Hình thái kinh tế-xã hội là phương pháp tiếp cận hạn hẹp, phiến diện vì nó "dựa trên định đề cơ bản coi sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội", nó không còn phù hợp với nhận thức thời đại hiện nay; rằng đó là thứ lý luận theo chủ thuyết "trọng vật chất" "thô thiển", "ngạo mạn và tự đắc" [11, tr.121]; rằng lý luận đó đã không nhìn thấy mối liên hệ nhiều vẻ, đặc biệt là "mối liên hệ ngược" của các nhân tố xã hội,v.v.. [11, tr.147].
Chúng ta thừa nhận, do sự vận động của thực tiễn, có một số vấn đề cụ thể của học thuyết cần được phát triển, chẳng hạn về vị trí và vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của sản xuất nói riêng, xã hội nói chung; chẳng hạn hiểu về lực lượng sản xuất hiện nay cần thấy vị trí ngày càng chủ yếu của lao động trí tuệ và do vậy phải nhấn mạnh chiều sâu trong sự phát triển của nó; chẳng hạn hiểu về chế độ sở hữu cần thấy vị trí của sở hữu trí tuệ,v.v...
Tuy nhiên với tính cách là phương pháp tiếp cận, học thuyết vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cách tiếp cận khoa học nhất trong thời đại hiện nay. Thực ra chính những quan điểm phê phán học thuyết lại chỉ xuất phát từ một nhân tố đơn lẻ mà bỏ qua những mặt cơ bản khác, chẳng hạn chỉ thấy vai trò của khoa học công nghệ mà bỏ qua quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp. Quan điểm đó chỉ nhấn mạnh một chiều quan hệ mà bỏ qua sự tác động biện chứng của các nhân tố của xã hội, chẳng hạn tuyệt đối hóa một chiều quan hệ từ khoa học công nghệ tới kinh tế, xã hội mà không thấy đầy đủ chiều ngược lại. Thực chất, quan điểm đó vẫn ở trong quỹ đạo tiếp cận "hình thái" nhưng phiến diện hơn, thiếu tính khoa học hơn.
Hai là: Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ rõ những động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử.
Dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử, bằng sự phân tích khoa học, học thuyết "hình thái" đã chỉ rõ những động lực cơ bản và phổ biến của sự phát triển lịch sử xã hội. Học thuyết đã khẳng định rằng lịch sử xã hội là lịch sử vận động trải qua các giai đoạn từ thấp đến cao và tương ứng với từng giai đoạn ấy là một Hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Xu hướng vận động của các Hình thái kinh tế - xã hội là xu hướng ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Nguồn gốc để tạo nên xu hướng phát triển ấy là sự phát triển của các nhân tố cơ bản trong Hình thái kinh tế - xã hội và mối quan hệ nội tại của chúng. C.Mác viết: "Chính con người, khi phát triển sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình đã làm biến đổi, cùng với sự tồn tại hiện thực của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình" [04, tr.38].
Với những khẳng định đó, học thuyết "Hình thái kinh tế - xã hội" đã chỉ rõ động lực vĩnh hằng của sự phát triển lịch sử xã hội là hoạt động thực tiễn của con người. Điều đó cho thấy tính chất vô lý của các luận điểm phê phán học thuyết cho rằng học thuyết chỉ thấy vai trò của yếu tố kinh tế mà bỏ qua con người, không thấy vai trò của con người trong sự phát triển xã hội. Trái lại, thông qua cách đánh giá đúng về hoạt động của nhân tố đó, Học thuyết đã nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân tố con người, đề cao vị trí của con người đối với sự vận động của lịch sử. Học thuyết đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao cả và một giá trị khoa học không thể phủ nhận được.
Học thuyết đã chỉ rõ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vốn được hình thành trong quá trình sản xuất của con người nhưng bản thân chúng lại không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những cá nhân con người. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng khách quan và quan hệ đó đã tạo thành quy luật khách quan chi phối mọi quá trình sản xuất. Chính quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một quy luật khách quan cơ bản của mọi phương thức sản xuất, mọi thời kỳ lịch sử. Quy luật đó là một động lực quan trong nhất chi phối sự phát triển của lịch sử xã hội.
Thực tiễn lịch sử đã và đang chứng minh vai trò của các quy luật trên đối với sự vận động của một xã hội cụ thể, cũng như của từng giai đoạn lịch sử. Việc nhận thức các động lực nói trên cùng với các động lực xã hội khác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động xã hội. Đó là một giá trị khoa học còn mãi soi đường cho hoạt động cải tạo có tính cách mạng xã hội. Giá trị đó không thể phủ nhận được.
Ba là: Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội và sự phân kỳ lịch sử.
Từ vô số các quan hệ xã hội, học thuyết đã phân thành hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ vật chất và các quan hệ tinh thần tư tưởng. Trong các quan hệ vật chất - những quan hệ hình thành một cách khách quan đối với ý thức con người - Học thuyết đã làm nổi bật quan hệ vật chất đầu tiên, tất yếu đó là quan hệ sản xuất tồn tại một cách khách quan, không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ một giai cấp, cá nhân nào: “Như vậy là ngay từ đầu đã có một hệ thống những mối liên hệ vật chất giữa người với người, một hệ thống bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người - một hệ thống những mối liên hệ không ngừng mang những hình thức mới,... Ngay cả khi chưa có bất cứ một điều nhảm nhí nào về chính trị hoặc về tôn giáo gắn bó thêm con người với nhau” [04, tr.43].
Quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất giữa chức năng kinh tế và chức năng xã hội. Ở chức năng kinh tế, quan hệ sản xuất bao giờ cũng tồn tại gắn liền với những LLSX nhất định, là môi trường, điều kiện và là một trong những động lực cho LLSX phát triển. Ở chức năng xã hội, QHSX là quan hệ nền tảng quy định các quan hệ chính trị và tinh thần của xã hội, là cơ sở của các mối quan hệ xã hội.
Từ tiêu chuẩn khách quan đó mà Học thuyết đã đưa ra sự phân kỳ lịch sử một cách khoa học: lịch sử bao gồm các thời kỳ là xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ đó được biểu hiện tập trung trong một Hình thái kinh tế-xã hội. Mỗi thời kỳ đó có quan hệ sản xuất đặc trưng riêng phù hợp với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có chế độ, tính chất chính trị và các tư tưởng xã hội riêng. Rõ ràng phương pháp tiếp cận "Hình thái kinh tế - xã hội" không chỉ giúp ta thấy sự khác nhau giữa các Hình thái kinh tế - xã hội mà còn thấy sự khác nhau giữa các xã hội trong một hình thái. Phương pháp tiếp cận theo nền văn minh và một số quan điểm đối lập khác có lẽ cũng nhận ra tính chất quan trọng của phát hiện này, nhất là nó lại không phù hợp với mục đích chính trị của họ, cho nên đã cố tình lờ đi vấn đề quan hệ sản xuất trong luận giải của mình hoặc, bằng mọi cách phủ nhận quan niệm về quan hệ sản xuất của học thuyết.
Bốn là: Học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội. Trên cơ sở phát hiện các quy luật khách quan chi phối sự vận động của các Hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của toàn bộ lịch sử. Xu thế đó chính là xu thế tiến lên không ngừng từ trình độ thấp đến cao hơn. Xu thế ấy được quyết định từ sự tác động biện chứng của các nhân tố khách quan trong chính ngay Hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác viết: “Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng,... về thực chất thì có tính chất phê phán và cách mạng,... [09, tr.35-36].
Như vậy cũng có thể nói rằng, khi chứng minh tính tất yếu của một trật tự xã hội hiện đang tồn tại, Học thuyết cũng chứng minh luôn tính tất yếu của sự diệt vong của nó, chứng minh luôn tính tất yếu của một trật tự khác mà trật tự hiện tồn tại nhất định phải đi tới.
Học thuyết nghiên cứu trật tự tư bản chủ nghĩa và chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội tiến bộ của lịch sử. Sự xuất hiện của nó không phải từ hư không mà từ những tiền đề do xã hội phong kiến tạo ra, đồng thời trật tự tư sản cũng không thể tồn tại vĩnh hằng mà do những quy luật của chính nó, những mâu thuẫn nội tại của nó, những tiền đề mà nó bắt buộc phải tạo ra, nó sẽ bị thay thế bằng một trật tự xã hội cao hơn là chủ nghĩa cộng sản.
Những dự đoán của C.Mác về điều đó đang được lịch sử hiện đại chứng minh. Chủ nghĩa tư bản càng tìm cách phát triển lực lượng sản xuất thì lại càng thúc đẩy tính xã hội hóa về sở hữu, quản lý, phân phối, càng thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đời sống nhân loại. Đó chính là những đặc trưng của một xã hội khác cao hơn hình thái tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đang tiến dần đến giới hạn cuối cùng của nó, đến sự diệt vong tất yếu của nó.
Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội đã thể hiện tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Giá trị khoa học và cách mạng thống nhất chặt chẽ với nhau ở chỗ "nó giải thích rõ những quy luật đặc thù chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của một trật tự xã hội nhất định và sự thay thế nó bằng một cơ thể khác cao hơn" [01, tr.12].
Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết còn được thể hiện ở chính chức năng phương pháp luận của nó. Học thuyết không chỉ giải thích sự tiến lên của lịch sử mà còn là phương pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong xây dựng một xã hội cụ thể một cách tự giác hơn. Học thuyết đòi hỏi sự vận dụng nó không phải như một bản thiết kế có sẵn mà phải với tinh thần linh hoạt, sáng tạo, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. Mọi sự áp dụng giáo điều, rập khuôn, máy móc đều xa lạ với tính phương pháp, tính cách mạng của học thuyết.
Với tính cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội từ khi ra đời đến nay đã nhiều lần phải đương đầu với sự chống đối, công kích của các trào lưu tư tưởng đối lập. Giai cấp tư sản và các phần tử cơ hội dưới mọi màu sắc không thể chấp nhận được học thuyết vì nó đã luận chứng một cách khoa học và chặt chẽ về sự thay thế tất yếu của xã hội TBCN bằng một xã hội khác cao hơn và luôn tìm cách chống lại học thuyết vì học thuyết đã tuyên ngôn một thế giới quan mới đối lập với lợi ích của chúng.
Từ những năm 1960, "chủ nghĩa kỹ trị" tuyên bố rằng nhân tố kỹ thuật, công nghiệp là nhân tố quyết định sự vận động, phát triển của xã hội. Những năm 1980, thuyết “xã hội hậu công nghiệp” trên hướng tiếp cận của “chủ nghĩa kỹ trị” với thuyết về "các nền văn minh" đã đưa ra cách tiếp cận từ phát triển của khoa học - công nghệ đã tìm mọi cách lảng tránh vấn đề về quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp, cách mạng xã hội, sự khác biệt giữa chế độ chính trị Tư bản chủ nghĩa và Chủ nghĩa xã hội và giai cấp tư sản đã tuyên bố rằng học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội là "giới hạn", "xơ cứng", "không tưởng", "lạc hậu", không còn phù hợp với thời đại hiện nay [12, tr.61-62].
Từ sau khi Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phạm vi và cường độ chống lại học thuyết càng tăng lên. Đây thực sự là một giai đoạn thử thách khắc nghiệt vị trí, ý nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, là giai đoạn quan trọng kiểm chứng giá trị và sức sống của nó. Sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản thế giới, chính là những căn cứ chủ yếu để các quan điểm đối lập phê phán và phủ định học thuyết, cho rằng học thuyết đó chỉ sáng tạo phản ánh thời đại các ông sống, không còn phù hợp với thời đại hiện nay.
Khẳng định giá trị của học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội để góp phần chỉ ra sức sống của học thuyết gắn với những giá trị của nó, dù rằng những diễn biến của thời đại hiện nay, đặc biệt của những thập niên đầu thế kỷ 21 vẫn đang khẳng định sức sống của học thuyết. Những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự phát triển của lực lượng sản xuất, về tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất, về sự thay đổi lớn lao của các quan hệ xã hội, về xu thế "quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến" của các dân tộc [05, tr.542], ngay cả về sự "cải cách", điều chỉnh của Chủ nghĩa tư bản [05, tr.600-601],v.v.. đang được lịch sử hiện đại chứng minh. Những dự báo ấy lại minh chứng cho tính đúng đắn về xu thế tất yếu của lịch sử và Học thuyết “Hình thái” vẫn đang tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó.
Dĩ nhiên sức sống của học thuyết còn đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung, phát triển dựa trên những thay đổi của thời đại. Nội dung các khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cần phải hiểu gắn với thời đại hiện nay. Việc xem xét vấn đề bản chất của nhà nước không được tuyệt đối hóa quan hệ giai cấp đến mức chỉ có nó, mà phải thấy sự thống nhất giữa tính giai cấp - dân tộc - nhân loại, phải đánh giá đúng chức năng xã hội của nhà nước,...
Với những nội dung nêu trên, chúng ta khẳng định rằng Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội vẫn là cách tiếp cận đúng đắn, vẫn đang định hướng cho hoạt động tự giác, sáng tạo của con người hướng tới xây dựng một xã hội tiến bộ hơn theo đúng quy luật khách quan của lịch sử. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết vẫn đang tỏa sáng trong thời đại chúng ta.
Do vậy, trên con đường đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, sau hơn 37 năm kiên trì vận dụng hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội nói riêng vào thực tiễn nước ta, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ chúng ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định.
Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay càng cần phải tiếp tục nghiên cứu vận dụng hệ thống lý luận ấy vào thực tiễn, qua đó, đúc rút những bài học kinh nghiệm để tiếp tục bổ sung, làm tươi mới hơn hệ thống lý luận ấy theo đúng bản chất của hệ thống lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận “mở”, làm cơ sở lý luận để tiếp tục xây dựng đất nước ta phát triển bền vững, làm luận cứ để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trong điều kiện hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
01. Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1994), Dự thảo một số vấn đề về chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay, Hà Nội.
02. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
03. Lênin V.I. (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Matxcova.
04. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
05. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
06. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
07. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
08. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
09. Mác-Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
10. Nguyễn Duy Quý, (1988), 150 năm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản – Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
11. Toffle A. (1996), Tạo dựng một nền văn minh mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Triết học tư sản phương Tây hôm nay, (1986), Nxb Thông tin-lý luận, Hà Nội.