Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn với đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Xây dựng nhà nước pháp quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo như một xu thế tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. Đây là nhiệm vụ trọng tâm đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị[6] .

         Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong thời gian qua Đảng ta lấy ý kiến về dự thảo đề án chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với xã hội chủ nghĩa, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung xã hội chủ nghĩa trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền. Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ,… Những luận điệu trên thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam,… Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” tất yếu sẽ không thành công, thiệt hại đến tài sản và nguồn lực của đất nước. Từ đó, họ lại tiếp tục khẳng định”: chỉ khi nào “xóa bỏ” chế độ xã hội chủ nghĩa thì mới có thể xây dựng thành công nhà nước pháp quyền. Những luận điệu trên là bất hợp lý, hoàn toàn không có cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn về nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.

         Vì vậy, để đấu tranh phản bác những luận điệu bất hợp lý, sai trái trên, trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích về mặt lý luận khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đã được đề cập ở các nước Phương Đông, Phương Tây:

         Ở phương Đông, các nhà luật học phái pháp gia, như: Quản Trọng, Thương Uyển, Hàn Phi Tử,… Theo thuyết pháp trị thì Vua trị nước phải có ba yếu tố đó là: pháp, thế, thuật. Nghĩa là pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ của vua là khuôn mẫu của thiên hạ, nhằm trừng trị, răn đe dân phải sợ, phải tuân thủ. Vua phải có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối cho mình. Vua phải có thuật dùng người và chế độ thưởng phạt. Theo Hàn Phi Tử: Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tránh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho nên, điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất đường lối của dân không có gì bằng pháp luật,… Kẻ làm vua nếu bỏ pháp luật mà làm theo ý riêng thì trên dưới không phân biệt.

         Ở phương Tây

         Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712-1778), I.Kant (1724-1804), Hêghen (1770-1831),… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới. Theo John Locke nhà tư tưởng người Anh ở thế kỷ thứ XVII đã lý giải tư tưởng về sự ngự trị của pháp luật thể hiện dưới hình thức Nhà nước, trong đó luật có tính tối cao - luật phù hợp với pháp luật tự nhiên, công nhận các quyền tự nhiên và tự do cá nhân, phải thực hiện sự phân quyền. Ông cho rằng nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm” là nguyên tắc của pháp luật được áp dụng đối với công dân, còn nguyên tắc “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” cần phải được thực hiện triệt để đối với những người nắm giữ quyền lực khi họ thực thi nhiệm vụ của mình.

         Như vậy, tư tưởng về nhà nước pháp quyền có từ rất sớm. Các nhà tư tưởng phương Đông cũng như Phương Tây đều nhấn mạnh vai trò và sự ngự trị của pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Coi pháp luật là chuẩn mực pháp lý quan trọng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội.

         Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền không chỉ có sự đóng góp của các triết gia tư sản, mà còn có sự đóng góp của những nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph.Ăgghen và V.I.Lênin dù không chính thức nói đến nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong học thuyết của mình, nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. C.Mác chỉ ra sự chi phối giữa Nhân dân với Nhà nước trong chế độ dân chủ. Ông cho rằng “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người,... trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp”[1]. V.I.Lênin đã làm rõ hơn về điều kiện ra đời, hình thành và phát triển của nhà nước, đó là: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”[2]. Trong xây dựng Nhà nước Xô viết, VI.Lênin đặt ra yêu cầu một tổ chức nhà nước trong sạch, hiệu quả: “…chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột mức, chỉ có giảm bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể đứng vững được. Và đứng vững như thế, không phải là đứng vững ở trình độ một nước tiểu nông, ở trình độ eo hẹp về mọi mặt đó,mà là ở một trình độ ngày càng vươn lên nền đại công nghiệp cơ khí”[3]. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội dù không xem nhà nước pháp quyền là bộ phận trong học thuyết của mình, nhưng trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy đã thể hiện quan điểm về những yếu tố pháp quyền, góp phần làm phong phú tư tưởng về nhà nước pháp quyền và đặt ra những ý tưởng mầm mống về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

         Thực tiễn lịch sử nhân loại minh chứng, nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi các yếu tố về lịch sử, truyền thống - văn hóa của mỗi dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì thế, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Do vậy, nói nhà nước pháp quyền là sản phẩm, là thành tựu của chủ nghĩa tư bản là một quan điểm hoàn toàn sai lầm.

         Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quá trình đúc kết từ thực tiễn, kế thừa có chọn lọc tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân”[5] . Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ Nhân dân, do Nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của Nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của Nhân dân.nhân. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước. Toàn bộ quyền lực Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân.

         Kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, vào năm 1922 trong đó yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”[4]. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.

         Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu Nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.

         Quan điểm của Ðảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

         Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã dược Đảng ta khẳng định từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) đến văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ thứ XII và đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống ttham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là bộ phận của hệ thống chính trị. Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành cơ bản. Vì vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đặt trong bối cảnh đổi mới đồng bộ các thành tố cơ bản của cả hệ thống chính trị, trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

         Những thành tựu trong quá trình đổi mới, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đối mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị đã tạo tiền đề, cơ sở chính trị - xã hội đặc biệt quan trọng cho việc nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

         Trên cơ sở quan điểm của Đảng, trong lịch sử lập hiến nước ta, Quốc hội đã ban hành 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013). Các bản Hiến pháp trong từng giai đoạn lịch sử đều có quy định về chính thể Nhà nước, Điêu 1, Hiến pháp 1946 quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; đặc biệt Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 đã cụ thể hóa và bổ sung cụm từ Nhà nước pháp quyền và tại Khoản 1,2 Điều 2, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Những quy định của các bản Hiến pháp là cơ sở, nền tảng pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

         Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. 

         Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực.

         Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. 

         Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. 

         Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường. 

         Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[7]

         Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ Việt Nam có một số đặc điểm đặc thù và xuyên suốt đó là: khẳng định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội sâu sắc, đúng đắn đưa các Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, cùng với truyền thống yêu nước của dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn và học hỏi có chọn lọc của các nước trên thế giới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền để vận dụng vào Việt Nam.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ Việt Nam là một hệ thống cơ sở khoa học đầy đủ và qua tổng kết đánh giá thực tiễn cho thấy trong những năm qua toàn Đảng, toàn dân ta đang đi đúng hướng trong việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ sở vững chắc để đấu tranh, phản bác mọi xuyên tạc của các thế lực thù địch về bản chất xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng và Nhà nước ta.

         Để tiếp tục bảo vệ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và kiên quyết phản bác, xóa bỏ những luận điệu phản khoa học, sai trái của các thế lực thù địch, cần tập trung một số giải pháp cơ bản như sau:

         Một là, Cấp ủy, chính quyền các cấp phải thường xuyên tuyên truyền đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân nhận thức một cách sâu sắc về quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tạo cơ sở cho việc thực hiện đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. 

Công tác tuyên phải lựa chọn hình thức đa dạng và phong phú về nội dung đảm bảo tính thiết thực, phù hợp với từng đối tượng. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền giúp cho cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân có niềm tin, lập trường tư tưởng vững vàng, không bị dao động tư tưởng trước những cám dỗ, kích động của các thế lực thù địch. Kiên quyết đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.

Hai là, Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân.[7] 

       - Nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

         - Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Ðảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 

        - Thực hiện tốt nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia-dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

         Ba là, Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển kinh tế đối với doanh nghiệp; chính sách xã hội đối với người có công với cách mạng; chinh sách người nghèo; an sinh xã hội,… Nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển, Nhân dân và các đối tượng thuộc diện chính sach ổn định về vật chất, tinh thần.  

         Bốn là, Tiếp tục bảo vệ, phát huy những giá trị tốt đẹp trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo thành công trong thời gian qua. Đồng thời, có cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật về quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vục chính trị, kinh tế, văn, giáo dục,… phát huy quyền dân chủ của Nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; nâng cao trách nhiệm giám sát của Nhân dân đối với Nhà nước.

         Như vậy, qua phân tích về hệ thống lý luận và tổng kết đánh giá thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, phải có sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ cả về tư duy và hành động của Nhà nước, xã hội cũng như mỗi cá nhân. Tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước theo hướng phát triển bền vững, mở rộng dân chủ, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính, trật tự an toàn xã hội. Từ đó tạo nên sức mạnh để phản bác những luận điệu sai trái của thế lực thù địch và tiếp tục giữ vững lập trường, quan điểm để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta.


 

----------------------------------------

1.  C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2002, tập 1, tr.350.

2. V.I. Lênin: Toàn tập, tập.33, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, tr.9.

3. V.I.Lênin: Toàn tập, tập.45, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, 459.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.473.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.383.

6. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQGST, H. 2020, tr.174, tr.284.

7. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. 

Tác giả: ThS. Lưu Tích Thái Hòa - Trưởng Khoa Nhà nước - Pháp luật




Thống kê truy cập
  • Đang online: 11
  • Hôm nay: 104
  • Trong tuần: 314
  • Tất cả: 140 343
Đăng nhập