Chiến thắng 16/4/1975 - mốc son chói lọi trong lịch
sử cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân Ninh Thuận, góp phần vào thắng lợi vĩ đại
của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Sau thất bại liên tiếp trên chiến trường Tây Nguyên và các tỉnh
dọc Duyên Hải miền Trung, Ngụy quyền Sài Gòn hoang mang cực độ, ra lệnh rút
quân lui về co cụm, lập Bộ tư lệnh tiền phương, xây dựng “Tuyến phòng thủ từ xa” bảo vệ Sài Gòn, lấy Du Long - cách thị xã
Phan Rang 30 km về phía Bắc làm nơi chốt chặn chủ yếu; quyết tử thủ ở 2 tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận. Với “Tuyến
phòng thủ từ xa”, chúng hòng củng cố lại tinh thần binh lính sau hàng loạt
thất bại thảm hại trên các chiến trường, ngăn chặn thế tiến công thần tốc của
quân ta; bảo vệ từ xa bộ máy đầu não Ngụy quyền tại Sài Gòn trước nguy cơ bị sụp
đổ hoàn toàn.
Đứng trước thời cơ ngàn năm có một, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị
họp và quyết định: “Cuộc chiến tranh cách
mạng ở Miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, thời cơ chiến lược để
tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt địch đã chín muồi. Từ
giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta bắt đầu”.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Với tư tưởng
chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, với quyết tâm lớn thực hiện tổng
công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4
năm 1975, không thể để chậm”. Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Khu ủy
và Quân khu 6 chỉ đạo Tỉnh uỷ Ninh Thuận: “Thời
cơ đã đến, Tỉnh ủy Ninh Thuận phải phát huy mọi lực lượng ở đồng bằng và căn cứ,
tiến ngay ra phía trước tấn công địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kềm,
giải phóng quê hương”.
Sau khi tỉnh Khánh Hoà và Lâm Đồng được
giải phóng, trong các ngày 01 đến ngày 03/4/1975, các toán tàn quân ở Đà Lạt
tháo chạy theo đường 11 về Phan Rang. Chớp thời cơ, ta mở các đợt công kích địch
đánh chiếm các ấp ở Sông Mỹ; sau đó lần lượt đánh chiếm các ấp ven đường 11 từ
Krông-Pha đến Đèo Cậu, giải phóng quận Krông-Pha. Mặc dù địch dùng nhiều máy
bay kết hợp với xe tăng, pháo binh, bộ binh đánh phá ác liệt vào vùng căn cứ và
vùng mới giải phóng, nhưng quân và dân Ninh Thuận vẫn kiên cường bám trụ, bẻ
gãy tất cả đợt phản kích của địch. Được sự chỉ đạo của Quân khu 6, Tỉnh ủy Ninh
Thuận chỉ đạo rút bộ đội địa phương của 2 huyện Bác Ái và Anh Dũng cùng một số
đơn vị khác của tỉnh để bổ sung cho Tiểu đoàn 610, làm nhiệm vụ chốt giữ Đèo Cậu,
chặn đánh địch từ sân bay Thành Sơn bung ra phản kích, bảo vệ quận Krông-Pha và
sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực vào giải phóng Phan Rang.
Chiều ngày 07/4/1975, tại Tháp Chàm trong lúc tinh thần địch
hoang mang rối loạn, lực lượng ta bung ra khống chế bọn tề điệp, ác ôn và dân vệ.
Đến 19 giờ cùng ngày, lực lượng vũ trang thị xã và du kích mật tấn công Trại
Nguyễn Hoàng, Ga Tháp Chàm, Cầu Móng, ngã ba Tháp Chàm và quận lỵ Bửu Sơn. Địch
ở sân bay Thành Sơn tung lực lượng ra phản kích quyết liệt. Đại đội 311 được
dân quân du kích và Nhân dân xóm Dừa giúp đỡ đã anh dũng chiến đấu suốt 2 ngày
đêm trong lòng địch, đánh lui 16 đợt phản kích của chúng. Để đập tan tuyến
phòng thủ từ xa của địch, đồng chí Thượng tướng Lê Trọng Tấn Tư lệnh cánh quân
duyên hải quyết định sử dụng Sư đoàn 3 của Quân khu 5, Trung đoàn 25 Tây Nguyên
và Quân khu 6, tăng cường 2 đại đội đặc công và công binh cùng với các lực lượng
của Ninh Thuận chuẩn bị tấn công “Tuyến phòng thủ từ xa”. Tỉnh uỷ Ninh Thuận hạ
quyết tâm cao nhất, lãnh đạo bộ đội địa phương, dân quân du kích, Nhân dân
trong tỉnh phối hợp với các lực lượng chủ lực của Trung ương và Quân khu chi viện,
vùng lên tấn công và nổi dậy đánh đổ chế độ Mỹ - Ngụy, giải phóng tỉnh nhà.
Sáng ngày 14/4/1975, tiếng pháo công kích của đại quân ta bắt
đầu bắn vào điểm chốt của địch ở Bà Râu, Suối Đá, Kiền Kiền, Ba Tháp, Núi Đất
và sân bay Thành Sơn. Đến 7 giờ sáng ngày 14/4/1975, Sư đoàn 3 bộ binh ta tấn
công chiếm quận lỵ Du Long và các vị trí Bà Râu, Suối Vang, Suối Đá, tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch tại đây; đồng thời bẻ gãy nhiều đợt phản công của
chúng hòng giữ “Tuyến Phòng thủ từ xa”.

Bộ đội đánh chiếm Tòa hành chính - cơ quan đầu
não ngụy quyền Ninh Thuận lúc 9 giờ
30 phút, ngày 16/4/1975. Ảnh tư liệu.
Sáng ngày 16/4/1975, lệnh tấn công được phát ra, lực lượng ta
chia làm 3 mũi chính: Mũi thứ nhất có xe tăng dẫn đầu tiến theo đường Quốc lộ
1, sau khi đánh chiếm Phan Rang sẽ tiến lên sân bay Thành Sơn từ hướng Nam; mũi
thứ 2 từ hướng Tây Bắc đánh thẳng vào sân bay Thành Sơn; mũi thứ 3 đánh chiếm cảng
Ninh Chữ, không cho địch tháo chạy ra biển. Phối hợp với quân chủ lực, lực lượng
311 ở núi Cà Đú xuất kích, đánh tạt vào sườn quân địch đang tháo chạy. Ở hướng
Tây Bắc, 2 đại đội đặc công và công binh Quân khu 6 phối hợp với lực lượng địa
phương chọc thẳng xuống Phước Thiện, Ninh Quý, vượt qua Cầu Sắt vào khu vực Bảo
An - Tháp Chàm.
Đến 9 giờ 30 phút ngày 16/4/1975 cờ
Mặt trận giải phóng tung bay trên đỉnh Toà hành chính - cơ quan đầu não ngụy
quyền Ninh Thuận, đánh dấu tỉnh Ninh Thuận hoàn toàn giải phóng. Tuyến phòng thủ
từ xa bảo vệ Sài Gòn bị đập tan đã tạo thế mở đường cho đại quân ta tiến vào giải
phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - Kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Sau một tháng Tổng tiến công
và nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to
lớn, toàn diện cả về chính trị và quân sự. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ Quân
khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi vào tình
thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực lượng,
tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể
làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng
ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây dựng
tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định.
Từ nhận định dù Mỹ có chi viện
cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của quân ngụy, Bộ Chính trị quyết định mở
cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt
nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm. Ngày 07/4/1975, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn
nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận,
giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”[1].
Trước diễn biến “một ngày bằng hai mươi
năm”, ngày 14/4/1975, theo đề nghị
của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý
chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Các lực
lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4)
và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh chủng tăng - thiết giáp,
đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh
khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích
chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh
Độc Lập trưa 30/4/1975. Ảnh: Mai Hưởng TTXVN
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tổng
công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: Hướng Bắc - Quân đoàn
1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc - Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên);
hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng Đông - Quân đoàn 4
(Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu
8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước cuộc tiến
công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta
đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ
giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch
Hồ Chí Minh toàn thắng.
Thắng lợi của quân
và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước
và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Thắng lợi của
Chiến dịch Hồ Chí Minh là thành quả tổng hợp của các nhân tố: Đó là sự lãnh đạo
của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị, đường lối
quân sự đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ; là sức mạnh của truyền thống bốn
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, là ý chí kiên cường, bất khuất, ý thức
làm chủ vận mệnh đất nước của cả dân tộc Việt Nam với tinh thần “Không có gì
quý hơn độc lập tự do;” là cuộc chiến đấu dũng cảm, thông minh của cả nước mà
nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân; là tình đoàn kết và liên minh chiến
đấu của nhân dân ba nước Đông Dương; là sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của các lực
lượng cách mạng và hòa bình trên thế giới.
Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên
của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới;
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc
lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc
đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự
phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.