Phan Rang - Vị trí
then chốt trong chiến lược phòng thủ từ xa của địch
Phan Rang là điểm
khởi đầu của tuyến phòng thủ chiến lược mà chính quyền Sài Gòn và Mỹ kỳ vọng có
thể cản bước tiến của Quân giải phóng từ Duyên hải miền Trung vào Nam. Với vị
trí chiến lược quan trọng, nằm tại ngã ba giữa quốc lộ 1 và quốc lộ 11 - tuyến
đường huyết mạch nối liền Trung bộ với Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, lại có cảng
Ninh Chữ và sân bay quân sự Thành Sơn, Phan Rang được chọn làm nơi xây dựng "tuyến
phòng thủ" chống giữ đường bộ lẫn đường biển.
Nhằm thực hiện âm mưu
cố thủ, chính quyền Sài Gòn đã nhập hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận thành
Vùng III chiến thuật, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương đặt tại sân bay Thành
Sơn, giao cho Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy. Địch cấp tốc tổ chức lực
lượng gồm các đơn vị tinh nhuệ như lữ đoàn 2 dù, liên đoàn 31 biệt động quân,
sư đoàn không quân số 6 với hơn 100 máy bay, cùng lực lượng địa phương và tàn
quân rút chạy từ miền Trung về. Thế trận phòng thủ được bố trí dày đặc tại các
hướng trọng yếu: Du Long, quốc lộ 11, khu vực sân bay… tạo thành một tuyến cố
thủ quy mô.
Chúng tin tưởng tuyến
phòng thủ Phan Rang sẽ cầm chân được Quân giải phóng trong ít nhất hai tháng,
đủ thời gian để củng cố lực lượng bảo vệ Sài Gòn. Nhưng diễn biến trên chiến
trường lại hoàn toàn trái ngược với dự tính của địch.
Cuộc tổng tiến công
giải phóng Phan Rang
Rạng sáng ngày
14/4/1975, đúng 5 giờ 30 phút, pháo binh quân giải phóng đồng loạt nã đạn vào
tuyến phòng thủ địch, mở màn trận đánh quyết định. Ngay sau đó, bộ binh Sư đoàn
3 tấn công các mục tiêu dọc quốc lộ 1 như Du Long, Bà Râu, Suối Vàng, Suối Đá…
Cuộc chiến diễn ra ác liệt ngay từ những giờ phút đầu tiên.

Xe tăng và pháo binh quân giải phóng
truy kích quân địch tại cửa ngõ vào sân bay Thành Sơn (ảnh tư liệu)
Ngày 15/4/1975, tình
hình tuyến phòng thủ Phan Rang trở nên nguy cấp. Trước tình hình đó, Tổng
trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn vội
vàng bay ra Thành Sơn thị sát. Tuy nhiên, chỉ sau hơn một giờ nghe báo cáo, cả
hai lập tức quay về Sài Gòn, cho thấy sự bế tắc và bất lực của ngụy quyền trong
việc xoay chuyển cục diện.
Rạng sáng ngày
16/4/1975, từ 5 giờ, quân ta huy động hàng trăm xe tăng, thiết giáp tấn công
theo hướng quốc lộ 1, đánh thẳng vào Phan Rang. Lực lượng vũ trang địa phương
phối hợp chặt chẽ, dẫn đường cho bộ đội chủ lực và chặn đánh quân địch tháo
chạy. Đến 7 giờ, các mục tiêu then chốt ở Phan Rang, trong đó có cảng Ninh Chữ,
đã nằm trong tay quân giải phóng.

Xe tăng quân giải phóng tiến
vào cơ quan hành chính tỉnh Ninh Thuận ngày 16/4/1975 (ảnh tư liệu)
Đến 9 giờ 30 phút, cờ
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên nóc Tòa Hành chính tỉnh Ninh
Thuận - biểu tượng quyền lực cuối cùng của ngụy quyền ở khu vực này. Mục tiêu
cuối cùng là sân bay Thành Sơn cũng nhanh chóng bị quân ta tấn công từ nhiều
hướng. Trưa cùng ngày, sân bay bị đánh chiếm hoàn toàn. Nhiều máy bay, khí tài
còn nguyên vẹn rơi vào tay ta. Bộ Chỉ huy Tiền phương địch không kịp rút bằng máy
bay, phải tháo chạy bằng đường bộ. Tối 16/4/1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang cùng nhiều sĩ quan bị bắt sống.

Quân giải phóng đánh chiếm
sân bay Thành Sơn ngày 16/4/1975 (ảnh tư liệu)
Ý nghĩa chiến lược
của Chiến thắng Phan Rang
Ngay trong đêm 16/4/1975,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi điện khen ngợi toàn thể
cán bộ, chiến sĩ mặt trận Phan Rang, đồng thời chỉ thị tiếp tục củng cố lực
lượng, đẩy mạnh tiến công với tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”.
Chiến thắng Phan Rang
đã đập tan hoàn toàn “Tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa", làm suy sụp
tinh thần ngụy quân, ngụy quyền. Việc mất Phan Rang khiến Sài Gòn bị lộ rõ và
thu hẹp dần khoảng cách phòng vệ, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta thọc sâu,
tiến công giải phóng Sài Gòn.
Chiến thắng này không
chỉ mang giá trị quân sự mà còn mang ý nghĩa chiến lược to lớn, góp phần to lớn
vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
Việt Nam.