Ngày 26/4/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam
ra tuyên bố khẳng định mục tiêu của nhân dân ta ở miền nam là xóa bỏ chính
quyền Sài Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến
tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền nam Việt Nam.
Vào cuối
năm 1974 - đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam có sự
thay đổi nhanh chóng, có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra
kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị
nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến
vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm
1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ
thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình
văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở
chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị nhận định: “Thời
cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền
Nam” và đưa ra quyết định: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ
thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải
phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ
Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta tiến công Xuân Lộc và
Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ
phía Đông.
Ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo,
táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng
miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.
Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy
Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến
dịch Hồ Chí Minh”. Các lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử
gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh
chủng tăng - thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân,
hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa
phương, dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Xe
tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập. Ảnh: Tư liệu.
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta
được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: Hướng
Bắc - Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc - Quân đoàn 3 (Binh
đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng
Đông - Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư
đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch.
Trước cuộc tiến công như vũ
bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm Dinh
Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp
phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn
thắng.
Cùng với giải phóng trên đất
liền, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh nghiên cứu thời cơ để giành lại chủ quyền các đảo,
quần đảo do quân đội ngụy Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông, đây là phần lãnh thổ
rất quan trọng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế không thể tách rời
của Tổ quốc. Ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công các đảo thuộc vùng
biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa, giành lại chủ quyền
các đảo vào ngày 29/4/1975.
Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975,
bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của
quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
Thắng
lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả
vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi
trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Ta đã hoàn
thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và
cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng
thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân trên thế giới
vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên,
khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử này, Đại hội IV của Đảng
(12/1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc”.
Phát
huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường, cùng ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ; sau 50 năm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; độc lập, chủ quyền
quốc gia và môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh
tế ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đời sống mọi mặt của
Nhân dân không ngừng được nâng cao. Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã
thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Hộ nghèo giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 2,93% năm 2023. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 433,7 tỷ USD, đứng
thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người 4.323
USD, gấp 58 lần sau ba thập kỷ. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được khẳng định và nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với 194 quốc gia, trong đó có 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước đối
tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện với 4/5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc. Việt Nam đã và đang thể hiện nổi bật vai trò là bạn, là đối tác tin cậy,
là thành viên có trách nhiệm của công đồng quốc tế, được thế giới đánh giá cao.

Chương trình tổng
hợp tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh Hữu Tâm
Kỷ
niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để chúng ta ôn
lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng
và phát triển đất nước; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học
kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh,
ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang thành động lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử
trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển mạnh mẽ của đất
nước.