Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược của một
lãnh tụ thiên tài, đã sớm nhận ra rằng, suy cho cùng, mọi thành bại của sự nghiệp
cách mạng đều phụ thuộc vào con người, mà trước hết và nòng cốt là đội ngũ cán
bộ của Đảng. Người đã khẳng định một chân lý giản dị mà sâu sắc: "Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc" [1],
và bởi vậy, "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém" [2].
Đây không chỉ là một nhận định về tầm quan trọng của công tác cán bộ, mà còn là
một yêu cầu, một mệnh lệnh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam: phải không ngừng
chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ thực sự xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

Từ
nhận thức đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành phần lớn tâm huyết trong "Sửa đổi
lối làm việc" để bàn về những phẩm chất và năng lực cần có của người cán bộ
cách mạng, cũng như những phương pháp để tu dưỡng, rèn luyện. Cốt lõi của những
phẩm chất ấy được Người đúc kết trong sáu chữ vàng: Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí công vô tư. Đó không phải là những khái niệm đạo đức trừu tượng, chung
chung, mà là những tiêu chuẩn cụ thể, thiết thực, gắn liền với hoạt động hàng
ngày của người cán bộ. "Cần" là sự chăm chỉ, chuyên cần, làm việc có
kế hoạch, có năng suất và chất lượng, không lười biếng, ỷ lại. "Kiệm"
là sự tiết kiệm, từ những cái nhỏ nhất như thời gian, giấy bút, đến những cái lớn
hơn là của cải, vật chất của Nhà nước và Nhân dân, tuyệt đối chống xa hoa, lãng
phí. "Liêm" là sự trong sạch, không tham lam địa vị, tiền tài, không
lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân, giữ gìn sự liêm khiết dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào. "Chính" là sự thẳng thắn, đúng đắn, trung thực, việc
gì phải thì làm, việc gì trái thì tránh, không thiên tư, thiên vị. Và đỉnh cao
của những phẩm chất đó là "Chí công vô tư", tức là đặt lợi ích của
cách mạng, của Đảng, của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết, không
màng danh lợi riêng tư. Những phẩm chất này, suy cho cùng, là sự kết tinh những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc với những yêu cầu của đạo đức cộng sản,
tạo nên nhân cách người cán bộ cách mạng Hồ Chí Minh.
Song
song với việc "xây", tức là bồi đắp những phẩm chất tốt đẹp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc phải kiên quyết "chống", tức là đấu
tranh không khoan nhượng với những thói hư tật xấu, những "chứng bệnh"
có thể làm suy yếu, thậm chí làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, làm xói mòn uy tín của
Đảng. Với trí tuệ của một nhà tư tưởng lớn và kinh nghiệm của một nhà hoạt động
thực tiễn dày dạn, Người đã "bắt bệnh" một cách chính xác và phân
tích sâu sắc hàng loạt những căn bệnh thường thấy. Đó là bệnh chủ quan,
thể hiện ở chỗ kém lý luận, hoặc lý luận suông, xa rời thực tế, chỉ dựa vào
kinh nghiệm cảm tính hạn hẹp; là óc hẹp hòi, tức bệnh địa phương chủ
nghĩa, bè phái, chỉ biết lợi ích của bộ phận mình mà không thấy lợi ích toàn cục;
là thói ba hoa, chỉ thích nói suông, nói nhiều làm ít, khoe khoang thành
tích một cách giả dối; là bệnh hình thức, chỉ chăm chăm vào cái vẻ bề
ngoài mà không chú trọng nội dung, chất lượng thực sự. Nguy hiểm hơn cả, theo
Người, là tệ quan liêu, mệnh lệnh, tức là xa rời quần chúng, không thấu
hiểu tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, chỉ biết ngồi bàn giấy ra chỉ thị, mệnh
lệnh một cách cứng nhắc, áp đặt [3].
Những "căn bệnh" này, như Người từng ví von, không khác gì những
"vi trùng" độc hại, những kẻ "địch ở trong lòng", có sức
phá hoại ghê gớm, làm tha hóa cán bộ từ bên trong, làm rệu rã tổ chức, và
nghiêm trọng nhất là cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, làm
suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Để
"trị bệnh cứu người", để xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng trong sạch,
vững mạnh, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những
phương thuốc, những phương pháp căn bản trong "Sửa đổi lối làm việc".
Trước
hết, Người yêu cầu cán bộ phải không ngừng học
tập, đặc biệt là học tập lý luận Mác - Lênin, nhưng không phải là học vẹt, học
thuộc lòng câu chữ, mà phải học để nắm lấy tinh thần, phương pháp, để vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Lý luận phải soi đường cho thực tiễn, và ngược
lại, thực tiễn là thước đo của lý luận.
Thứ
hai, một yêu cầu mang tính nguyên tắc là cán bộ
phải mật thiết liên hệ với Nhân dân, "sự lãnh đạo trong mọi công tác
thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng"[4].
Người chỉ rõ: "cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng,
cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại" [5].
Phải thực sự khiêm tốn học hỏi Nhân dân, bởi vì "dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [6].
Thứ
ba, tự phê bình và phê bình là "thứ vũ
khí sắc bén nhất" để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, làm cho Đảng
ta ngày càng mạnh, nội bộ ngày càng đoàn kết. Phê bình phải có mục đích xây dựng,
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cuối cùng, lối làm việc phải dân chủ, phải
thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chống lại sự độc
đoán, chuyên quyền cũng như thái độ ỷ lại, thiếu trách nhiệm. Những phương pháp
này không chỉ là những kỹ năng công tác đơn thuần, mà còn phản ánh một thế giới
quan, một nhân sinh quan cách mạng, một phong cách Hồ Chí Minh mẫu mực.
Thấm
nhuần những lời dạy quý báu đó, trong suốt chặng đường gần tám thập kỷ qua, Đảng
ta đã không ngừng nỗ lực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới lề lối làm việc. Các Nghị quyết Đại hội
Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về công tác xây
dựng Đảng, về công tác cán bộ, về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên... đã thể hiện
quyết tâm chính trị to lớn của Đảng trong việc hiện thực hóa những tư tưởng của
Người. Nhờ đó, chúng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngày càng lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên đã giữ vững phẩm
chất cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ năng lực đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, luôn đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, đóng góp
to lớn vào những thành tựu vẻ vang của dân tộc.
Tuy
nhiên, thẳng thắn nhìn nhận, như tinh thần Nghị quyết Trung ương các khóa XI,
XII, XIII đã chỉ ra, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng đội ngũ cán
bộ vẫn còn những tồn tại, hạn chế, thậm chí có những mặt còn diễn biến phức tạp.
Những "căn bệnh" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo trong "Sửa đổi
lối làm việc" vẫn chưa bị đẩy lùi hoàn toàn, mà có lúc, có nơi lại tái
phát dưới những hình thức mới, tinh vi hơn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn là một nguy
cơ hiện hữu. Đâu đó vẫn còn hiện tượng cán bộ quan liêu, xa dân, hành chính hóa
trong công tác Đảng, công tác dân vận. Bệnh thành tích, hình thức chủ nghĩa vẫn
còn khá phổ biến. Đặc biệt, tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức làm việc
trì trệ, thiếu trách nhiệm, thụ động, né tránh, đùn đẩy công việc, nhất là
trong giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, đang gây
bức xúc trong dư luận, làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường đầu tư, đến tốc độ
phát triển của đất nước. Tâm lý "sợ sai", "sợ trách nhiệm",
không dám đổi mới, sáng tạo, chỉ muốn "an phận thủ thường" đang là một
lực cản không nhỏ. Bên cạnh đó, tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, mặc dù đã được
Đảng ta đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng, "không có vùng cấm,
không có ngoại lệ" [7]
và đạt được những kết quả rất quan trọng, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ, song
vẫn còn diễn biến phức tạp, tinh vi, là một trong những thách thức lớn nhất đe
dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Tất cả những điều đó cho thấy, việc tiếp
tục học tập, quán triệt và vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn trong "Sửa đổi
lối làm việc" vào thực tiễn hôm nay là một yêu cầu không thể cấp thiết
hơn.
Trong
bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với mục tiêu trở
thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, việc tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ là một đòi hỏi tất yếu. Các chủ trương lớn như sắp xếp lại các đơn vị hành
chính cấp tỉnh để tạo không gian phát triển mới, tối ưu hóa nguồn lực, hay
nghiên cứu bỏ cấp hành chính trung gian như cấp huyện nhằm tinh gọn bộ máy,
tăng cường hiệu lực quản lý trực tiếp từ tỉnh xuống cơ sở, đều là những bước đi
táo bạo, thể hiện tư duy đổi mới, đột phá của Đảng ta. Để những chủ trương này
đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, vai trò của đội ngũ cán bộ và lề lối làm
việc của họ là yếu tố có ý nghĩa quyết định.
Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong "Sửa đổi lối làm việc" vào bối cảnh
này, trước hết, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, từ khâu
phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, bố trí, sử dụng và đãi
ngộ cán bộ. Phải thực sự coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc, là nền tảng.
Những tiêu chuẩn "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư" phải được cụ
thể hóa thành những tiêu chí rõ ràng, có thể đo lường được trong đánh giá cán bộ.
Phải kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực,
uy tín, nhất là những người có biểu hiện suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Đồng
thời, phải có cơ chế thực sự để khuyến khích, bảo vệ những cán bộ năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Việc tinh gọn
bộ máy, sắp xếp lại tổ chức phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, đảm bảo bộ máy sau khi tinh gọn sẽ hoạt động hiệu quả hơn,
phục vụ Nhân dân tốt hơn. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức phải tự mình
"sửa đổi lối làm việc", nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động học
hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới trong một cơ cấu
tổ chức mới.
Để
thực sự thấm nhuần và làm theo lời Bác dạy, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức trong giai đoạn hiện nay cần không ngừng nỗ lực rèn luyện, phấn đấu
trên nhiều phương diện.
Thứ
nhất, phải xem việc học tập lý luận chính trị,
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một nhu cầu tự thân, một nhiệm
vụ thường xuyên, để nâng cao tầm nhìn, tư duy khoa học và bản lĩnh chính trị.
Thứ
hai, phải luôn tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, giữ gìn sự liêm chính, trong sạch, kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, thói quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện tiêu cực
khác, thực sự là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo.
Thứ
ba, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy và phong
cách làm việc, theo hướng năng động, sáng tạo, khoa học, nói đi đôi với làm, “dám
nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương
đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung” [8],
lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo.
Thứ
tư, phải luôn tâm niệm mình là "công bộc
của dân", do đó phải gần dân, trọng dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, giải
quyết kịp thời, thấu đáo những nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, thực sự "việc
gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh" [9].
Thứ
năm, phải
là người đi đầu trong xây dựng và củng cố kỷ luật, kỷ cương trong từng cơ quan,
đơn vị, và rộng hơn là trong toàn xã hội, đồng thời phải là hạt nhân kiến tạo một
môi trường làm việc thực sự dân chủ, đoàn kết, thấm đượm tình đồng chí, đồng
nghiệp.
Kỷ
luật, kỷ cương không phải là sự áp đặt khô cứng, mà là ý thức tự giác chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị. Đó là sự thống nhất giữa lời nói và hành
động, giữa nhận thức và việc làm, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả một tập thể.
Người cán bộ, đảng viên phải là biểu tượng của sự nghiêm minh nhưng không xa
cách, của sự quyết liệt trong công việc nhưng luôn chan hòa trong đối nhân xử
thế. Phải chủ động xây dựng một không khí làm việc mà ở đó, sự thẳng thắn góp
ý, tinh thần tự phê bình và phê bình được đề cao, nơi mọi ý kiến xây dựng đều
được trân trọng, nơi sự đoàn kết không phải là "dĩ hòa vi quý" một
cách hình thức, mà là sự đồng tâm, hiệp lực dựa trên cơ sở nguyên tắc và mục
tiêu chung. Một môi trường làm việc như vậy sẽ khơi dậy được trí tuệ tập thể,
phát huy được sở trường của mỗi cá nhân, và quan trọng hơn, sẽ là "thành
trì" vững chắc chống lại những biểu hiện tiêu cực, cục bộ, bản vị có thể
làm suy yếu tổ chức.
Thứ
sáu, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đang diễn ra như vũ bão và công cuộc chuyển đổi số quốc gia được xác
định là một đột phá chiến lược, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình trở thành một
"công dân số" mẫu mực, tiên phong trong học tập, ứng dụng khoa học
công nghệ, làm chủ các công cụ, phương tiện làm việc hiện đại, từ đó góp phần
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác và thúc đẩy xây dựng Chính phủ
số, kinh tế số, xã hội số. Đây không còn là một lựa chọn, mà là một yêu cầu bắt
buộc để không bị tụt hậu, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn. Việc
làm chủ công nghệ không chỉ dừng lại ở kỹ năng sử dụng máy tính, các phần mềm
văn phòng, mà còn là khả năng khai thác hiệu quả các hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu dùng chung, tham gia tích cực vào các nền tảng làm việc trực tuyến, đảm
bảo an toàn, an ninh thông tin. Hơn thế nữa, người cán bộ trong kỷ nguyên số cần
có tư duy số, tức là khả năng nhìn nhận, phân tích vấn đề và đề xuất giải pháp
dựa trên dữ liệu, có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ và
sẵn sàng học hỏi những điều mới mẻ. Sự chủ động, sáng tạo trong ứng dụng công
nghệ sẽ giúp minh bạch hóa hoạt động công vụ, rút ngắn thời gian giải quyết
công việc, giảm thiểu phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời mở ra
những không gian mới cho sự phát triển và đổi mới sáng tạo trong từng lĩnh vực.
Và
cuối cùng, mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức sâu sắc
rằng, việc không ngừng "sửa đổi lối làm việc" theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao với tinh thần trách nhiệm
cao nhất, bằng một phong cách làm việc khoa học, hiệu quả, liêm chính, và một
trái tim thực sự "vì dân phục vụ", chính là hành động thiết thực nhất,
là vũ khí sắc bén nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của
Nhân dân. Khi mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là một tấm gương về đạo đức cách mạng,
về năng lực công tác, khi bộ máy nhà nước vận hành trơn tru, hiệu quả, giải quyết
kịp thời những yêu cầu chính đáng của người dân và doanh nghiệp, thì đó chính
là sự khẳng định hùng hồn nhất cho tính ưu việt của chế độ ta, cho vai trò lãnh
đạo đúng đắn của Đảng. Một lối làm việc trong sạch, chí công vô tư, một bộ máy
liêm chính, kiến tạo sẽ tự nó làm thất bại mọi âm mưu xuyên tạc, chống phá của
các thế lực thù địch. Ngược lại, sự quan liêu, trì trệ, nhũng nhiễu, những biểu
hiện suy thoái trong một bộ phận cán bộ chính là mảnh đất màu mỡ cho những luận
điệu sai trái, thù địch có cơ hội len lỏi, gieo rắc hoài nghi. Vì vậy, bên cạnh
việc trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh trên mặt trận lý luận, nhận diện và
phản bác các quan điểm sai trái, thì việc tự chấn chỉnh, tự làm trong sạch
mình, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác theo đúng tinh thần "Sửa đổi
lối làm việc" chính là cách mỗi cán bộ, đảng viên đóng góp vào việc xây dựng
"thế trận lòng dân" vững chắc, làm cho nền tảng tư tưởng của Đảng
ngày càng được củng cố và lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội. Đây không chỉ
là trách nhiệm chính trị mà còn là mệnh lệnh từ lương tâm của người cán bộ cách
mạng trong giai đoạn mới.
"Sửa
đổi lối làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một tác phẩm lý luận
chính trị sâu sắc, một cẩm nang về công tác xây dựng Đảng, mà còn là sự kết
tinh những giá trị đạo đức và phong cách của một lãnh tụ vĩ đại, một người Cộng
sản chân chính. Ánh sáng tư tưởng từ tác phẩm này vẫn còn nguyên giá trị soi đường
cho chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hôm nay và mai sau. Trước những yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới,
trước những vận hội và thách thức đan xen, việc thấm nhuần và vận dụng sáng tạo
những lời dạy của Bác Hồ trong "Sửa đổi lối làm việc" vào thực tiễn
công tác, vào quá trình tự rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên là một mệnh lệnh
từ trái tim, một đòi hỏi tự thân để mỗi chúng ta thực sự xứng đáng với niềm tin
của Đảng, của Nhân dân. Chỉ có không ngừng "sửa đổi lối làm việc"
theo tư tưởng của Người, chúng ta mới có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ
thực sự "vừa hồng vừa chuyên", một bộ máy nhà nước thực sự trong sạch,
vững mạnh, kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân, góp phần đưa đất nước ta vững
bước trên con đường đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu hằng mong ước.
[1] (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, tr. 309.
[2] (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, tr. 280.
[3] (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, các trang từ 273 đến 290.
[4] (2011),
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, tr.
330.
[5] (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, tr. 292.
[6] (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 5, tr. 335.
[7] Nguyễn Phú Trọng (2023), Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Đảng
và nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội
[8] Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát
biểu tại Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025.
[9] (2011),
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, Tập 4,
tr. 65.