Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, các cấp ủy, tổ chức đảng trên địa
bàn tỉnh đều ban hành Nghị quyết, Chương trình hành động, Kế hoạch để triển
khai thực hiện; đồng thời, chỉ đạo chính quyền các cấp cụ thể hóa thành Kế hoạch
cải cách hành chính giai đoạn 2021-2025, Kế hoạch cải cách hành chính hằng năm
và tổ chức triển khai thực hiện đạt hiệu quả. Hằng năm, tiến hành khảo sát mức
độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan, đơn
vị, địa phương; thẩm định, đánh giá, phân loại kết quả cải cách hành chính của
các cơ quan, đơn vị, địa phương; xác định chỉ số năng lực cạnh tranh cấp Sở,
ngành, huyện, thành phố làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, thi đua
khen thưởng. Từ ngày 28/9/2021 đến 31/8/2024, UBND tỉnh đã giao 16.298 nhiệm vụ
trên phần mềm văn bản chỉ đạo, điều hành đối với các cơ quan, đơn vị, địa
phương; theo đó đã hoàn thành 16.211 nhiệm vụ (99,47%), trong đó có 15.107 nhiệm
vụ giải quyết đúng hạn (chiếm 92,69%), 1.104 nhiệm vụ giải quyết trễ hạn
(6,77%), còn 88 nhiệm vụ đang thực hiện (chiếm 5,54%). Trong đó, một số cơ
quan, đơn vị đã nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không có nhiệm vụ trễ
hạn, tồn đọng.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác xây dựng, thẩm định và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, bảo đảm sự cần thiết, tính hợp lý, hợp pháp, tính khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận. Thường xuyên kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành mới các văn bản đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước Giai đoạn từ ngày 28/9/2021 đến ngày 31/8/2024, HĐND tỉnh
đã ban hành 105 Nghị quyết quy phạm pháp luật; Ủy ban nhân dân tỉnh
đã ban hành 289 Quyết định quy phạm pháp luật; đã cập nhật Cơ sở dữ liệu pháp luật văn bản VBQPPL đối với 349 văn bản.
Ban hành các kế hoạch kiểm tra, rà
soát văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đồng thời, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL do UBND tỉnh ban hành năm 2021,
có 02/99 quyết định có dấu hiệu trái pháp luật; 26/99 quyết định có sai sót về
thể thức, kỹ thuật trình bày; 01 quyết định chưa tuân thủ theo quy định (không
qua thẩm định). Rà
soát VBQPPL của HĐND, UBDN tỉnh năm 2021, đã rà soát, hệ thống hóa tổng số 245 văn bản. Tự kiểm tra trong
năm 2022, UBND tỉnh ban hành 86 văn bản quy phạm pháp luật, đã tiến hành tự kiểm
tra 86/86 văn bản; trong đó, có 01 văn bản trái pháp luật và 04 văn bản có sai
sót khác. Trong năm 2023, không có văn bản ban hành bị trái pháp luật; 02 văn bản
có sai sót. Rà soát VBQPPL của HĐND, UBND tỉnh năm 2022, 2023 đã tiến hành rà
soát, hệ thống hóa 228 văn bản.
Công
tác kiểm soát thủ tục hành chính tiếp tục đi vào nề nếp và tuân thủ đúng quy định.
Định kỳ hằng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt Kế hoạch
rà soát, đánh giá thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh; trong đó, giao trực tiếp
các Sở, ban, ngành rà soát một số thủ tục, nhóm thủ tục hành chính nhằm kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc hủy bỏ những
quy định về thủ tục hành chính không cần thiết, không phù hợp. Trên cơ sở rà
soát, đánh giá thủ tục hành chính, kiến nghị các Bộ, ngành liên quan đơn giản
hóa thủ tục hành chính nhằm cắt giảm thời gian, chi phí tuân thủ thủ tục hành
chính cho người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính;
theo đó, đã cắt giảm 24,28% thời gian thực hiện TTHC so với công bố của Bộ Công
Thương; rút ngắn thời gian giải quyết của 20/35 TTHC thuộc lĩnh vực đất đai,
trong đó có 14 TTHC cắt giảm từ 20% thời gian giải quyết trở lên
Tính đến tháng 9 năm 2024, toàn
tỉnh đã bãi bỏ được 175 TTHC, sửa đổi, bổ sung 759 TTHC trên tổng số 1,777 TTHC
đạt tỷ lệ 52.56%. Tuy nhiên, việc đơn giản hóa TTHC ở cấp tỉnh chỉ dừng lại ở
việc cắt giảm thời gian giải quyết TTHC, ứng dụng CNTT vào kết nối và khai thác
cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giảm bớt việc nhập thông tin cho người dân,
cán bộ công chức một cửa tiếp nhận hồ sơ do không có TTHC thuộc thẩm quyền của
địa phương nên chỉ có thể đề xuất Bộ, ngành xem xét triển khai thực thi các đề
xuất đơn giản hóa TTHC sau khi các cơ quan, đơn vị, địa phương hoàn thành rà
soát.
Việc triển khai thực hiện TTHC trên môi trường điện tử
được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện đạt
kết quả. Ban hành và triển khai thực hiện kế hoạch số hóa kết quả giải quyết
TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của
các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025. Năm 2024, tiếp tục số hóa đạt 100% kết quả giải quyết
TTHC còn hiệu lực. Đến nay, hầu hết kết quả giải quyết hồ sơ TTHC được cung cấp
đồng thời cả bản điện tử cho người dân, doanh nghiệp theo quy định.
Triển khai giao doanh nghiệp bưu chính công ích tiếp
nhận hồ sơ và trả kết quả tại Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh đối với 5
sở. Tiếp tục xây dựng đề án giao doanh nghiệp bưu chính công ích đảm nhiệm một
số công việc trong giải quyết TTHC và thực hiện tiếp nhận, giải quyết TTHC
không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay, Cổng Dịch vụ công của tỉnh tích hợp, kết nối,
khai thác 20 trường thông tin cơ bản trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGVDC)
với 100% dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) của tỉnh để phục vụ trong việc giải
quyết TTHC của các cơ quan, đơn vị, địa phương; tạo và cấp hơn 232 tài khoản có
chức năng khai thác CSDLQGVDC cho các đơn vị có tham gia thực hiện trên Cổng Dịch
vụ công tỉnh (đã tham gia 9.015 lượt khai thác cơ sở dữ liệu dân cư, để hỗ trợ
trong công tác giải quyết TTHC).
Việc
giải quyết thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công của tỉnh đã triển khai thực
hiện toàn trình, kết nối liên thông từ khâu đầu vào đến khâu trả hồ sơ cho tổ
chức, cá nhân; các công đoạn giải quyết thủ tục hành chính đều thực hiện trên Cổng
dịch vụ công của tỉnh. Đồng thời, Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đã
theo dõi, thống kê kết quả giải quyết hằng ngày các thủ tục hành chính trên
lĩnh vực đất đai trên Cổng dịch vụ công để phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành.
Tiếp tục duy trì thực hiện việc
tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa
liên thông theo quy định. Việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã đạt được những hiệu quả thiết thực, tạo
được sự hài lòng của công dân, tổ chức khi đến giao dịch. Thông qua việc thực
hiện mô hình một cửa hiện đại, thời gian giải quyết thủ tục hành chính được rút
ngắn, số lượng công việc được giải quyết tăng hơn; chất lượng, hiệu quả giải
quyết TTHC tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh ngày càng được nâng cao. Từ ngày 28/9/2021 đến ngày 30/8/2024, toàn tỉnh đã tiếp
nhận 3.761.706 hồ sơ, đã giải quyết trước hạn 728.384 hồ sơ (chiếm 19,36%),
đúng hạn 3.013.676 (chiếm 80,12%) hồ sơ, trễ hạn 12.514 (chiếm 0,33%), đang
trong thời hạn giải quyết 7.132 (chiếm 0,19%).
Tiếp tục đổi mới sắp xếp, tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
giảm bớt đầu mối. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã ban hành Kế hoạch số 160-KH/TU ngày 26/8/2022 về thực hiện Thông báo kết
luận số 16-TB/TW của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị
quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII; đã tổ chức sơ kết
05 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII. Phê duyệt Đề án kiện toàn cơ cấu tổ chức của các
cơ quan tham mưu giúp việc của Tỉnh ủy theo đúng quy định và ban hành Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các các cơ quan tham
mưu giúp việc của Tỉnh ủy; tăng cường phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
Chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện,
sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị theo quy định của Chính phủ và Thông
báo số 141-TB/TU, ngày 06/4/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về sắp xếp, kiện
toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh.
Triển khai rà soát, sắp xếp, tổ
chức lại mạng lưới trường, lớp học và đội ngũ giáo viên các cơ sở giáo dục công
lập trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả theo Chỉ thị
số 41-CT/TU, ngày 30/8/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Về vị trí việc làm, chỉ đạo
các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung triển khai xây dựng, trình phê duyệt
vị trí việc làm theo quy định; phân cấp cho Sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND cấp
huyện thẩm quyền thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh Đề án vị trí việc làm, cơ cấu
viên chức theo chức danh nghề nghiệp của đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một
phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm
chi thường xuyên nhằm đẩy nhanh tiến độ hoàn thành phê duyệt vị trí việc làm
theo quy định. Đến nay đã hoàn thành việc phê duyệt vị trí việc làm và cơ cấu
ngạch công chức, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp cho 100% cơ quan,
tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức Hội thuộc thẩm quyền
quản lý của UBND tỉnh. Ban hành Danh mục
vị trí việc làm công chức, viên chức, người lao động các cơ quan khối Đảng, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và các huyện, thành ủy, đảng ủy khối
trực thuộc Tỉnh ủy.
Về công tác biên chế công chức, viên chức, biên
chế hội, cán bộ, công chức cấp xã. Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 1101-QĐ/TU ngày 09/11/2022 giao biên chế
chính quyền địa phương tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2022-2026; Kế hoạch số
175/KH-TU ngày 19/12/2022 quản lý, sử dụng biên chế của hệ thống chính trị tỉnh
Ninh Thuận giai đoạn 2022-2026. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế
hoạch cụ thể hóa lộ trình giai đoạn 2022-2026 tinh giảm ít nhất 5% biên chế
hành chính và giảm ít nhất 10% biên chế sự nghiệp; tổng số biên chế khối chính
quyền địa phương giai đoạn 2022-2026 của tỉnh là 12.158 biên chế, bao gồm 1.571
cán bộ, công chức (giảm 83 biên chế hành chính so với năm 2021) và 10.587 viên
chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước (giảm 1.176 biên chế sự nghiệp so với
năm 2021).
Về
tinh giản biên chế: trong giai đoạn từ ngày 28/9/2021 đến ngày 30/8/2024 đã thực hiện tinh giản
biên chế đối với 214 trường hợp. Công tác thẩm định, giải quyết chế độ chính
sách tinh giản biên chế đối với các trường hợp nêu trên đảm bảo đúng đối tượng,
xác định chuẩn xác thời gian công tác, giải quyết chế độ đúng quy định, góp phần
sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước. Công tác tinh giản biên chế đối với các
trường hợp thời gian qua chưa phát sinh vấn đề tồn tại. Trên cơ sở nguồn lực biên chế được phân bổ và các trường
hợp đã thực hiện tinh giản biên chế, các cơ quan, đơn vị, địa phương đã tập
trung triển khai thực hiện nghiêm túc; đẩy mạnh
thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp quản lý, sử dụng thật
sự hiệu quả biên chế được giao theo lộ trình tinh giảm biên chế
giai đoạn 2022-2026 đề ra. Kết quả giai đoạn
2022 -2024, tỉnh đã thực hiện giảm 27 biên chế hành chính (đạt tỷ lệ 1,63%) và
giảm 466 biên chế sự nghiệp (đạt tỷ lệ 3,96%) theo đúng lộ trình, kế hoạch đề
ra, đảm bảo hoàn thành mục tiêu đến năm 2026 giảm 5% biên chế hành chính và 10%
biên chế sự nghiệp theo quy định.
Các cơ quan hành chính tiếp tục triển khai thực hiện cơ
chế tự chủ theo theo quy định. Hiện nay, có 221 cơ quan, đơn vị (gồm 45 đơn vị cấp tỉnh và 176 đơn vị cấp
huyện, xã), trong đó 216 đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ, ban hành quy chế
chi tiêu nội bộ. Triển khai nhiều giải pháp đẩy mạnh cơ chế tự chủ của ĐVSNCL nhằm đạt mục tiêu đến hết năm 2025
có ít nhất 20% ĐVSNCL tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
ngân sách nhà nước cho các ĐVSNCL so với năm 2021. Đối với những ngành, lĩnh vực
có khả năng xã hội hóa cao đã thực hiện chuyển đổi 100% đơn vị sự nghiệp sang
cơ chế tự bảo đảm về tài chính.
Trong
giai đoạn từ 28/9/2021 đến 30/8/2024 thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tài chính năm 2021, năm 2022, giai đoạn 2021-2023 và giai đoạn
2022-2026 cho các cơ quan, đơn vị theo quy định. Tại thời điểm ngày 28/9/2021, toàn tỉnh có 380 đơn vị sự
nghiệp công lập; trong đó tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư là 5 đơn vị;
tự bảo đảm chi thường xuyên là 27 đơn vị; tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
là 37 đơn vị (trong đó: từ 10% - dưới
30%: 18 đơn vị; từ 30% - dưới 70%: 11 đơn vị; từ 70% đến dưới 100%: 8 đơn vị);
do Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên: 311 đơn vị); đến ngày 30/8/2024, toàn
tỉnh có 369 đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó tự đảm bảo chi thường xuyên và
chi đầu tư: 10 đơn vị; tự đảm bảo chi thường xuyên: 28 đơn vị; tự đảm bảo một
phần chi thường xuyên: 41 đơn vị (trong đó: từ 10% đến dưới 30%: 22 đơn vị;
30% đến dưới 70%: 18 đơn vị; từ 70% đến dưới 100%: 1 đơn vị); do Nhà nước đảm bảo
chi thường xuyên: 290 đơn vị). So với trước
khi thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU đã giảm 11 đơn vị sự nghiệp công lập, tăng 05 đơn vị tự đảm
bảo chi thường xuyên và chi đầu tư và tăng 01 đơn vị tự bảo đảm chi thường
xuyên
Hạ tầng
kỹ thuật công nghệ thông tin của tỉnh đã triển khai theo mô hình điện toán đám
mây cho tất cả các ứng dụng. Trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh và Tỉnh ủy đã
được đầu tư, nâng cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển chính quyền số, thúc đẩy chuyển
đổi số; 100% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện được trang bị máy tính; 100%
các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và cấp
xã đã có mạng nội bộ (LAN); 19 Sở, ban ngành, 7 huyện, thành phố và 65 xã, phường,
thị trấn đã kết nối mạng diện rộng (WAN) của tỉnh thông qua mạng truyền số liệu
chuyên dùng của Đảng và Nhà nước phục vụ truy cập internet và các phần mềm dùng
chung.
Triển khai Phần mềm hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc (TD.Office) đến 26/26
Sở, ban, ngành và 7/7 UBND cấp huyện, 65/65 UBND cấp xã; gắn với tích hợp chứng
thư số và mã định danh; việc trao đổi, xử lý văn bản trên môi trường mạng (trừ
văn bản mật) đạt 99,39% đối với cấp tỉnh, 96,52% đối với cấp huyện và 97,10% đối
với cấp xã. Việc sử dụng chữ ký số cá nhân
trên toàn tỉnh đạt 97,82% (cấp tỉnh: 99,39%; cấp huyện: 96,52%; cấp xã:
97,10%).
Số lượng dịch vụ công trực tuyến là 1.068 DVCTT, trong đó
có 540 DVCTT toàn trình và 528 DVCTT một phần. Đồng bộ trạng thái và đã tích hợp lên Cổng dịch vụ
công quốc gia 1068/1068 DVCTT đạt 100%.
Từ ngày 01/01/2024 đến ngày 06/9/2024 toàn tỉnh đã tiếp
nhận được 182.314 hồ sơ, trong đó có 139.677 hồ sơ tiếp nhận trực tuyến chiếm
76,61%, có 42.344 hồ sơ tiếp nhận trực tiếp chiếm 23,23% và 296 hồ sơ tiếp nhận
qua bưu chính công ích chiếm 0,16%. Đã giải quyết được 178.582 hồ sơ, trong đó
số hồ sơ đã giải quyết sớm hạn và đúng hạn là 178.274 hồ sơ chiếm 99,83%, số hồ
sơ đã giải quyết trễ hạn là 308 hồ sơ chiếm 0,17%. Tổng số hồ sơ đồng bộ trạng
thái lên Cổng dịch vụ công quốc gia là 159.670/182.314 hồ sơ đạt 87,58%.
Hệ thống thông tin kinh tế -
xã hội đã vận hành và kết nối với Hệ thống báo
cáo của Chính phủ theo quy định. Triển khai thực hiện Quy chế quản lý khai thác
và vận hành Hệ thống thông tin kinh tế - xã hội của tỉnh; đã xây dựng hoàn thiện
17 biểu mẫu báo cáo theo quy định của Văn phòng Chính phủ trên Hệ thống báo cáo
kinh tế - xã hội của tỉnh và đang thực hiện kết nối liên thông với Văn phòng
Chính phủ. Hiện nay, hệ thống Báo cáo kinh tế xã hội tỉnh có 880 biểu điện tử.
Hội nghị truyền hình trực tuyến
được kết nối liên thông 4 cấp từ Trung ương,
tỉnh, huyện và 65/65 xã, phường, thị trấn, đảm bảo 100% cuộc họp qua hội nghị
truyền hình giữa UBND tỉnh với các CQNN, UBND cấp huyện, cấp xã.
Trung tâm giám sát an toàn, an ninh mạng (SOC) và điều
hành đô thị thông minh (IOC) hoạt động ổn định; được kết nối, tích hợp 16 hệ thống
thông tin để theo dõi, giám sát; thực hiện chế độ báo cáo kết quả giám sát tình
hình hoạt động Trung tâm SOC và IOC hàng tuần và phát hành bản tin điện tử SOC
và IOC hàng tháng gửi cho các Sở, ban, ngành, địa phương, UBND tỉnh. Hệ thống
camera giám sát kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao
thông đường bộ tại khu vực nội đô thành phố PR-TC và tuyến Quốc lộ 1A; đã thực
hiện hoàn thành dự án xây dựng đô thị thông minh thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm giai đoạn 2021-2025 (đối với hạng mục giải pháp công nghệ); đưa Trung tâm
điều hành đô thị thông minh thành phố đi vào hoạt động.
Số lượng cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách về CNTT
của tỉnh hiện có 89 người, có 04 người đã tham gia lớp bồi dưỡng đội ngũ nòng cốt chuyển
đổi số; thành lập 446 Tổ công nghệ số cộng đồng cấp xã, thôn/khu phố với 2.439
thành viên; đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyển đổi số cho 210 cán bộ lãnh đạo UBND cấp xã, 983 thành viên Tổ công nghệ số cộng đồng
và 150 cán bộ Đoàn, đoàn viên thanh niên.
Đây là lực lượng nòng cốt để tham gia vào công tác tham mưu triển khai thực hiện
công tác chuyển đổi số, đưa nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số đến với người
dân, qua đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số của tỉnh.
Qua 03
năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, một số cấp ủy,
tổ chức đảng đã triển khai nhiều mô hình điển
hình, cách làm hiệu quả về cải cách hành chính được nhân rộng trên địa bàn tỉnh,
cấp huyện, cấp xã và trong từng ngành, lĩnh vực; một số mô hình đã được Hội đồng
thẩm định của Bộ Nội vụ đánh giá cao khi triển khai đánh giá chỉ số PAR INDEX hằng
năm; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã tằng Bằng khen đối với 42 tập thể và 48
cá nhân về về thành tích công tác CCHC và cải thiện các Chỉ số PAR INDEX, PAPI,
SIPAS, PCI của tỉnh.