Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách
thức, nhưng với sự tập trung nỗ lực của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở,
tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh được
duy trì ổn định; nền kinh tế vùng DTTS tiếp tục đà tăng trưởng khá, kết quả
đạt được của các mục tiêu, chỉ tiêu, cụ thể: (1) Về kinh tế, thành lập mới 15 hợp tác
xã sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổng hợp tại xã có đông đồng bào DTTS sinh
sống; giảm 6,67% xã, 0% thôn đặc biệt khó khăn; thu nhập bình quân đầu người tăng
1,1 lần so với năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân trên 4,69%/năm. (2) Về xã hội, hạ tầng thiết yếu: 100 %
xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 100% thôn có
đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 96,8% số trường, lớp học và 100% trạm y
tế được xây dựng kiên cố. Y tế, giáo dục,
tiếp cận truyền thông, củng cố, phát triển mạng lưới y tế để đồng bào dân
tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; 69,57% đồng
bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế (Nghị quyết đến năm 2025 có 98%);
trên 93,5% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có
sự trợ giúp của cán bộ y tế (Nghị quyết đến năm 2025 trên 80%); giảm tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 16% (Nghị quyết đến năm 2025 dưới
15%); tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98,7 % (Nghị quyết đến
năm 2025 trên 98%), học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường đạt 97,8 %
(Nghị quyết đến năm 2025 trên 97%), học sinh trung học cơ sở
đến trường 93,4% (Nghị quyết đến năm 2025 trên 95%), học sinh trung học phổ thông đến trường 59,9% (Nghị quyết đến
năm 2025 trên 60%); người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ
thông 90,81% (Nghị quyết đến năm 2025 đạt 90%); 97% đồng bào dân tộc thiểu số
được xem truyền hình và nghe đài phát thanh (Nghị quyết đến năm 2025 đạt 100%).
Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, có
70,05% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện
của người dân tộc thiểu số (Nghị quyết đến năm 2025 có 50% lao động); giải quyết việc làm trên 18.532
người (Nghị quyết đến năm 2025 trên 18.000
người); 100% thôn có nhà sinh hoạt cộng
đồng; 81,27% thôn có đội văn hóa, văn nghệ truyền thống hoạt động thường xuyên,
có chất lượng. (3) Về môi trường: Số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc
gia và các nguồn điện khác phù hợp đạt 99,8%; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số
được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 98,74%; tỷ lệ che phủ rừng vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 51,29%.
Về Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các
vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, đã tổ chức khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư tại
các xã khu vực III với tổng diện tích là 113.728,21
lượt ha, đạt 79,55% so với kế hoạch. Thực
hiện khoanh nuôi xúc tiến tái sinh với tổng diện tích là 3.160 lượt ha, đạt 65,97% so với kế hoạch. Thực hiện trợ cấp gạo
cho các hộ gia đình tham gia nhận khoán bảo vệ rừng và trồng rừng phòng hộ là 854.698,5 kg gạo/2.846 lượt hộ gia
đình.
Từ nguồn vốn của Chương trình đã hỗ trợ xây dựng 02 dự
án liên kết chuỗi giá trị tại huyện Ninh Sơn. Thực hiện 101 dự án phát triển sản xuất công đồng (97 dự
án chăn nuôi, 04 dự án trồng trọt), với hơn 1.200 hộ tham gia (hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo).
Về giải quyết tình
trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; bố trí, sắp xếp ổn định
dân cư đã thực hiện quy hoạch, đang xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng 04 điểm dân
cư, gồm các huyện: Thuận Nam 01 điểm/50 lô; Ninh
Sơn 01 điểm/24 lô; Thuận Bắc 01 điểm/146 lô; Ninh Hải 01 điểm/28 lô. Đã hỗ trợ xây dựng hoàn thành 317 căn nhà ở cho 317 hộ
nghèo (Ninh Sơn 189 căn, Bác Ái 128 căn); chuyển
đổi nghề cho 1.930 hộ; hỗ trợ học nghề
cho 327 người. Các địa phương đã triển khai thực hiện hỗ trợ bắt nước
sinh hoạt phân tán cho 539 hộ; xây dựng 08 công trình nước sinh hoạt tập trung (Bác Ái 06 công trình, Ninh Phước 02 công trình).
Về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch và thương mại, đã có sự quan tâm và hỗ trợ đầu
tư để phát triển một số nghề truyền thống của đồng bào DTTS. Đồng bào Chăm ở xã
Xuân Hải, huyện Ninh Hải còn phát triển nghề buôn bán thuốc Nam, hàng năm mang
lại thu nhập ổn định.

Nghệ nhân làm gốm Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước
Du lịch và thương mại: Hệ thống hạ tầng được chú trọng
phát triển, mạng lưới kinh doanh ngày càng mở rộng với nhiều phương thức kinh
doanh văn minh, hiện đại, UBND tỉnh bố trí 9.500
triệu đồng để đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp mạng lưới 03 chợ vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Du lịch đang từng bước phát triển với một số tour và tuyến du lịch nổi bật
như: Tháp Pô Klong Garai, Vườn Quốc gia Núi Chúa và Phước Bình, Thác Chapơr,
Bẫy đá Pi Năng Tắc...
Về đầu tư cơ
sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào
DTTS&MN đã đầu
tư xây dựng 62 công trình cơ sở hạ tầng
thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào DTTS
và miền núi (điện, đường, trường, trạm, nhà sinh hoạt cộng đồng, hệ thống thủy
lợi, chợ…). Tỷ lệ các xã thuộc Chương trình có đường ô tô đến
trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông đạt 100%; 100% thôn và xã vùng đồng bào
DTTS đã được kết nối điện lưới quốc gia, với tỷ lệ hộ dân
sử dụng điện đạt 99,8%; công trình thủy lợi đảm bảo nguồn nước tưới cho 7.480
ha đất canh tác nông nghiệp, trong đó có hơn 1.600 ha ở vùng miền núi. Đầu tư xây mới 210 phòng học, sửa chữa 313 phòng học và 15 cơ sở giáo
dục; đã đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các bệnh viện
tuyến huyện và mạng lưới y tế cơ sở.
Về phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Mạng lưới trường lớp học tại các vùng miền núi đã được
nâng cấp và mở rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Đặc biệt, mạng lưới các
trường Dân tộc Nội trú và Phổ thông Dân tộc Bán trú đã được quan tâm đầu tư
nâng cấp cho con em đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm 4 trường Dân
tộc Nội trú cấp huyện (Ninh Sơn, Bác Ái, Thuận Bắc, Ninh Phước), 01 trường Dân
tộc Nội trú cấp tỉnh và 11 trường hoạt động theo mô hình Phổ thông Dân tộc Bán
trú. Hiện tại, có 100% thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi
có trường học hoặc điểm trường mẫu giáo và tiểu học; 100% xã có trường THCS. Tổ
chức 27 lớp xóa mù chữ, 29
lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho 892 cán bộ làm công tác dân tộc trên địa
bàn tỉnh. Đồng thời, tổ chức 02 lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc Raglai cho đội ngũ
làm công tác dân tộc các cấp với 57 người tham gia.
Về phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc
làm cho vùng DTTS&MN. Kết quả giải quyết
việc làm giai đoạn năm 2022 đến tháng 6/2024 là 46.839 người, đạt 97,58% so với
kế hoạch giao (46.839/48.000), trong đó giải quyết việc làm cho lao động là dân tộc thiểu số khoảng trên 18.532 lao động, chiếm 39,56% so với tổng số
được giải quyết việc làm, chiếm tỷ lệ 102,96% so
với Nghị quyết; đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 451 lao động đạt 100,22% so với
kế hoạch giao (451/450), trong đó người dân
tộc thiểu số là 69 người, chiếm
15,29% trên tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thông qua nguồn vốn vay
giải quyết lao động việc làm đã cho vay 401,628 tỷ đồng và giải quyết việc làm
cho 1.845/14.010 lao động, chiếm tỷ lệ 13,17% trên tổng số lao động được giải
quyết việc làm từ nguồn vốn này.
Tổ chức tuyển mới và đào tạo nghề cho cho 26.718 người. Trong
đó đào tạo nghề sơ cấp, dưới 3 tháng cho đối tượng lao động nông thôn là 7.831,
trong đó có 5.486 người dân tộc thiểu số tham gia học nghề, chiếm tỷ lệ 70,05% tổng số lao động
tham gia học nghề, chiếm tỷ lệ 94% (47,15%/50%) so với Nghị quyết.
Về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi được quan tâm đầu tư
trong thời gian qua với nhiều dự án như phát triển hạ tầng làng nghề Chung Mỹ,
Bàu Trúc, Mỹ Nghiệp; sửa chữa, nâng cấp, trùng tu các di tích văn hóa như Tháp
Pô Klong Garai, Tháp Porome, và Tháp Hòa Lai. Đầu tư trùng tu tôn tạo di tích cấp
quốc gia Bẫy đá Pinăng Tắc xã Phước Bình, huyện Bác Ái để chống xuống cấp; Đầu
tư bảo tồn, tu bổ và tôn tạo phát huy giá trị nhóm tháp Pô Rômê. Đến nay, 100% thôn, khu phố và 94% hộ gia đình đã được
công nhận đạt chuẩn văn hóa. Hầu hết các huyện đều có Trung tâm văn hóa - thể
thao; tất cả 28 xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đều có nhà văn hóa hoặc điểm sinh hoạt
cộng đồng.
Về chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc
ngưòi dân tộc thiểu
số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em: Công tác chăm sóc và tư vấn sức khỏe,
tư vấn dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai và trẻ em được triển khai thực hiện ngày càng
tốt; triển khai các hoạt động
truyền thông trên phương tiện thông tin đại chúng về phòng chống dịch bệnh mùa hè, dinh
dưỡng và sức khỏe; tổ chức tuyên truyền vào các ngày, tháng cao điểm:
Tháng hành động vì trẻ em, Tuần lễ Dinh dưỡng và Phát triển, Tuần lễ Thế giới
Nuôi con bằng sữa mẹ,... Tỷ lệ các ca sinh của phụ nữ dân tộc thiểu số
được cán bộ y tế đã qua đào tạo đỡ đẻ năm 2024 là 98,7%, tăng 0,2% so với năm
2021. Tỷ lệ phụ nữ đẻ người dân
tộc thiểu số được khám thai ít nhất 3 lần trong
thời kỳ mang thai năm 2024 là 83,5%, tăng 1,2% so với năm 2021. Số phụ nữ đẻ
tại cơ sở y tế đạt 98,8%, tăng 2,1% so với năm 2021; trong 3 năm qua tỷ suất tử
vong mẹ người dân tộc thiểu số đã giảm một cách đáng kể, năm 2022
có 01 trường hợp tử vong mẹ người dân
tộc thiểu số (năm 2022 là 33,2/100.000 trẻ đẻ
sống giảm so năm 2021 là 34,9/100.000 trẻ đẻ sống), năm 2023, 2024 chưa
ghi nhận trường hợp tử vong mẹ người dân
tộc thiểu số.
Về thực hiện bình đẳng giới
và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em. Tổ chức tuyên truyền trên các kênh
truyền thông đại chúng, hội nghị tập huấn nâng cao năng lực thành lập và duy
trì Tổ truyền thông theo Sổ tay hướng dẫn, tập huấn Chương trình phát triển
năng lực lồng ghép giới cho cán bộ cấp xã, thôn, câu lạc bộ/tổ/nhóm,
hội viên nòng cốt. Tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn thành lập, kỹ năng điều
hành sinh hoạt và duy trì tổ truyền thông cộng đồng; tập huấn nâng cao năng lực
xây dựng mạng lưới truyền thông trên nền tảng số cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ 6 huyện, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
Liên hiệp phụ nữ 7 xã điểm, Ban điều hành 07 Tổ
truyền thông; thành lập và duy trì 77 tổ truyền thông cộng đồng, đạt chỉ
tiêu 100%; hỗ trợ 02/04 tổ nhóm sinh kế/Tổ hợp tác/Hợp
tác xã do phụ nữ làm chủ/đồng làm chủ ứng dụng công nghệ 4.0,
đạt 50%; thành lập mới 08 Địa chỉ tin cậy, đạt chỉ tiêu 100%; tổ chức 02 cuộc
đối thoại chính sách; thành lập 14/15 Câu lạc bộ thủ lĩnh của sự thay đổi, đạt
97%; tổ chức nâng cao năng lực cho 30 cán bộ nữ dân
tộc thiểu số tham gia lãnh đạo trong hệ thống chính trị, đạt chỉ tiêu
100%; tổ chức 04 lớp tập huấn lồng ghép giới cho cán bộ huyện, xã, đạt chỉ tiêu
100%; tổ chức 14 lớp tập huấn lồng ghép
giới cho cán bộ thôn, khu phố, đạt chỉ tiêu 100%.
Giảm thiểu tình trạng
tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi: Tổ chức 01 hội thi; 01 hội nghị tọa đàm, tư vấn pháp
luật với 250 người tham gia; ban hành 1.000 cuốn sổ tay, 9.800 tờ gấp tuyên
truyền; 20 hội nghị/1.184 người, 21 panô tuyên truyền.
Về truyền thông, tuyên
truyền, vận động trong vùng đồng bào DTTS&MN. Kiểm tra, giám sát
đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình. Khen thưởng thành tích đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
an ninh, trật tự tại địa phương nhân dịp Hội nghị biểu dương, tôn vinh các điển
hình tiên tiến trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Ninh
Thuận lần thứ nhất năm 2024 (07 tập thể và 33 cá nhân). Tổ chức 50 lớp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trò của lực lượng cốt cán và người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tổ chức 03 lớp tập huấn
cho 191 người có uy tín về chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước liên quan đế vấn đề dân tộc; tổ chức 03 Đoàn đi học tập kinh nghiệm
ngoài tỉnh cho người có uy tín và trang bị phương tiện nghe nhìn (điện thoại
thông minh) cho người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh
đã thực hiện trên 700 tin, phóng sự tuyên
truyền phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh. Tuyên truyền thực hiện chính
sách dân tộc; công tác xóa đói giảm nghèo tại các xã miền núi; kết quả triển
khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc giảm nghèo bền vững giai đoạn
2021-2025; hiệu quả
từ các mô hình sản xuất nông nghiệp vùng cao,… gắn với thực hiện tốt Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khơi dậy ý chí
tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng quê hương phát triển, phồn vinh, hạnh
phúc. Chương trình tiếng Chăm, Raglai
thực hiện 08 chương trình/tháng với nhiều tin, phóng sự, phỏng vấn, gương tốt…
về công tác dân tộc; các mô hình sản xuất kinh tế đạt hiệu quả cao của đồng bào
dân tộc thiểu số trong
tỉnh...
Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình, đề án. Hàng năm, các sở, ban, ngành cấp tỉnh được giao phụ trách, theo dõi từng
dự án của Chương trình đều thành lập Đoàn kiểm tra, giám sát liên ngành, tổ
chức kiểm tra việc triển khai thực hiện Chương trình ở địa bàn các xã, huyện
thực hiện các nội dung thành phần của Chương trình theo quy định. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh đã ban hành Kế hoạch Giám sát và
Phản biện xã hội, trong đó có nội dung giám sát và phản biện Chương trình. Đồng
thời, các địa phương đã triển khai xây dựng và bố trí nguồn lực triển khai kế
hoạch kiểm tra, giám sát thực hiện Chương trình trên địa bàn.
Qua công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đã giúp các các
huyện, các xã tham gia thực hiện Chương trình chấp hành các quy định về quản
lý, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình; phát huy những kết quả tích cực
và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để đảm bảo thực hiện Chương trình có hiệu
quả, đúng mục tiêu, tiến độ hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra.
Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời
gian tới
1. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức, cụ
thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số
19-NQ/TU,
các chủ trương của Đảng, Nhà nước
liên quan công tác dân tộc và chính sách dân tộc tại vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi. Đồng thời, tập trung nghiên cứu, tiếp thu các chủ trương, quan điểm, định hướng
mới của Đảng về phát triển phát
triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để tuyên truyền, quán triệt, nâng
cao nhận thức và xây dựng kế hoạch, đề ra nhiệm vụ, giải pháp cụ thể triển khai
thực hiện hiệu quả trong thời tới, nhất là các vấn đề về: Tăng cường khối
đoàn kết toàn dân tộc, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; phát huy nội lực, ý trí tự lực, tự
cường; chăm lo đội ngũ cán bộ, người có uy tín; xây dựng và phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng
cường nhận diện rõ các âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống
phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền… để gây chia rẽ khối đoàn
kết toàn dân tộc.
2. Tiếp tục bám sát chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiếu số và miền núi để tập trung
chỉ đạo huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị triển khai thực hiện hoàn thành các
mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Nghiên
cứu, có chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo.
3. Tăng cường công tác thu hút, huy
động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đầu tư cho phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi; lồng ghép nguồn vốn của các chương trình, dự án trên địa bàn để nâng
cao hiệu quả đầu tư, chống lãng phí thất thoát; khuyến khích và tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi.
4. Chú trọng công tác đào đạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động.
5. Rà soát, kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến
các cơ chế triển khai các dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia
phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phù hợp
với tình hình thực tế. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương thực hiện
các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi góp phần phát huy tính tự chủ, vươn lên của đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi.