Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU, các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận đoàn thể, các cơ quan, đơn vị địa phương trong tỉnh đã tổ chức
phổ biến, quán triệt, tuyên truyền đến toàn thể cán bộ đảng viên và các tầng lớp Nhân dân
với các hình thức phong phú. Toàn
tỉnh đã tổ chức được 466 lớp
nghiên cứu, học tập, quán triệt cho 23.421
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, quần chúng cốt cán; trong đó có
19.386/19.828 đồng chí là đảng
viên, đạt tỷ lệ 97,8% và 14.894 quần chúng cốt cán. Ban Tuyên
giáo Tỉnh uỷ đã biên soạn, xuất bản 2.100 cuốn tài liệu “các nghị quyết chuyên
đề của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận khóa XIV” để tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên
và mở rộng trong Nhân dân; đồng thời đã chỉ đạo, định hướng các cơ quan truyền
thông trên địa bàn tỉnh tuyên truyền sâu
kỹ về nội dung Nghị quyết số 18-NQ/TU đến các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh.
Kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu:
- Giá trị sản xuất công nghiệp ước năm 2024 đạt 16.449,4 tỷ đồng; tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2021-2024 đạt 15,92% (mục tiêu giai đoạn 2021-2025
tăng 17-18%). Trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 20,02%;
công nghiệp chế biến chế tạo tăng 12,22%; công nghiệp sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước tăng 21,48%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước
thải tăng 3,73%.
- Tỷ trọng ngành công nghiệp dự kiến năm 2024 chiếm
31,28% giá trị GRDP toàn tỉnh (mục tiêu 29-30%).
- Tổng công suất các nhà
máy điện đưa vào vận hành: Tính đến hết ngày 30/6/2024, trên địa bàn tỉnh đã đầu
tư và đưa vào vận hành thương mại (COD) với tổng công suất 3.749,9 MW. Trong đó điện mặt trời
tập trung 2.466,79MW; điện mặt trời mái nhà 286,4MW; điện gió 667,25MW; thủy
điện 329,5MW (mục tiêu 6.500MW).
-
Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng các
khu, cụm công nghiệp, đã thu hút được 22 dự án thứ cấp đầu tư
vào Khu, cụm công nghiệp; tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp hiện có đạt
28,4% (mục tiêu 50% trở lên).
- Chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm năng
lượng, năng lượng tái tạo của cả nước đạt kết
quả tích cực; khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế, tiếp
tục khẳng định là trụ cột, động lực cho tăng trưởng kinh
tế của tỉnh, nhất là trong 2 năm dịch COVID-19, cụ thể: Tỷ trọng ngành năng lượng chiếm 22,76% GRDP của tỉnh và đóng góp 23,69%
tổng thu ngân sách tỉnh; giải quyết việc làm khoảng 4.150 lao động, chiếm
1,8% nhu cầu lao động trong 4 ngành kinh tế trọng điểm
của tỉnh; tổng công suất lắp
đặt các nguồn năng lượng so với cả nước chiếm trên 4,6% (3.749MW/80.704MW);
sản lượng điện tiêu thụ toàn Tỉnh năm 2023
đạt 12,41%.
- Tập trung phát triển công nghiệp năng
lượng, cảng biển, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ trợ và một số
ngành công nghiệp khác: đã tập trung thu hút nhiều dự án năng lượng tái tạo, năng lượng mới, phát
triển Cảng biển tổng hợp Cà Ná (Giai đoạn 1,2), các ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo có nhiều khởi sắc, đã có nhiều nhà đầu tư quan tâm đăng ký sản xuất
công nghiệp hóa chất sau muối, phát triển công nghiệp phụ trợ sản xuất kết cấu
thép, công nghiệp nặng.

Khu công nghiệp Du Long (Thuận Bắc). Ảnh: Báo Ninh Thuận.
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp:
Về hoàn thiện, đổi
mới cơ chế chính sách phát triển công nghiệp: Trong giai đoạn 2021-2024 đã xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; trong
đó, xác định “phát triển năng lượng, năng lượng tái tạo là trụ cột, là động lực và
là một trong những ngành đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội”; “Phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ, các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp
luyện kim, công nghiệp chế biến các sản phẩm đặc thù, tổ hợp sản xuất, hóa chất
sau muối. Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo gắn với cảng biển và
trung tâm logistics theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường, tăng trưởng
xanh”, “phát triển ngành nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao phục vụ công nghiệp chế biến, hướng đến xuất khẩu”. Đề xuất danh mục 04 khu công nghiệp/1.682 ha và 19
cụm công
nghiệp/770,04
ha dự kiến
phát triển trong phương án phát triển Khu, cụm công nghiệp tỉnh Ninh Thuận tích hợp vào Quy hoạch
tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, tổ chức thành công Hội nghị công bố Quy hoạch
tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư đã tạo hiệu ứng lan tỏa
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư; hiện tỉnh đang trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh.
Các cơ chế,
chính sách cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày
11/02/2020 của Bộ Chính trị về định
hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045: đã kiến
nghị Bộ Công Thương tích hợp Đề án phát triển điện gió ngoài khơi; tham mưu bổ sung mới các nguồn năng lượng Điện
mặt trời; điện gió ngoài khơi Mũi Dinh (2.000MW); dự án thủy điện tích năng
Phước Hòa, công suất 1.200MW; Quy hoạch điện gió trên đất liền tổng công suất
1.159 MW; Quy hoạch điện gió ven biển giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm
2045 với tổng công suất 4.380 MW; Đề án tổng thể phát triển điện gió ngoài khơi
tổng công suất dự kiến khoảng 21.000MW; Quy hoạch điện mặt trời giai đoạn đến
năm 2030 thêm 6.031MW; Bổ sung Quy hoạch điện khí LNG Cà Ná giai đoạn 2, 3 tổng
công suất 4.500MW; thủy điện vừa và nhỏ tổng công suất khoảng 120MW. Các dự án
năng lượng vào Quy hoạch phát
triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; kiến nghị hỗ trợ giải quyết khó khăn của các doanh nghiệp đầu tư phát triển
năng lượng. Ban hành 01 Nghị quyết, 01 Quyết định, 05 Kế hoạch để quản lý, chỉ đạo điều
hành phát triển trên lĩnh vực năng lượng.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban
hành Chỉ thị số 39-CT/TU về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả công tác
cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đến năm 2025. Công tác
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh,
tăng cường thu hút đầu tư luôn được chỉ đạo, quan tâm thực hiện; tổ chức
Hội thảo đánh giá và phân tích các nội dung tác động đến Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh; tổ chức gặp mặt doanh nghiệp định kỳ hàng tháng. Thường xuyên cập nhật, đăng tải
thông tin trên trang tin điện tử về các cơ chế, chính sách mới, thủ tục hành
chính, tình hình hoạt động liên quan đến chính sách đầu tư, sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp, nhằm đáp ứng kịp thời công tác thông tin, quảng bá,
định hướng phát triển công nghiệp địa phương mang tính đặc thù, lợi thế, thu hút đầu tư. Đến nay, tỉnh cấp
Quyết định chủ trương/Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 473 dự án với tổng vốn
đăng ký 240.458 tỷ đồng.
Tăng cường kêu gọi,
thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm, có lợi thế: Tỉnh ban hành danh mục 55 dự án ưu tiên
kêu gọi đầu tư và danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào các khu công nghiệp đến năm
2025; đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, qua đó mời gọi đầu tư vào các dự án ưu
tiên kêu gọi đầu tư, các dự án tại vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam của và các dự án năng lượng khác. Đồng thời, nghiên cứu
xu hướng chuyển dịch và đón đầu sự chuyển dịch đầu tư từ các tỉnh phía Nam để
thực hiện các hoạt động tư vấn, thu hút đầu tư về tỉnh đối với một số dự án như Hydro, điện gió;
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh
tiến độ triển khai dự án; hỗ trợ, tạo kênh thông tin
chính thống để các doanh nghiệp, nhà đầu tư phản ánh, kiến nghị các khó khăn,
vướng mắc phát sinh; hỗ trợ tặng miễn phí phần mềm kế toán cho doanh nghiệp
thành lập mới, hỗ trợ chuyển đổi số, hóa đơn điện tử...
Về triển khai đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút các nguồn lực
để phát triển các nhóm ngành công nghiệp, củng cố và nâng cao chất lượng dịch vụ công
nghiệp: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 03 Khu công nghiệp/855,267 ha đã được cấp quyết định chủ trương đầu tư, đang đẩy nhanh
tiến độ thi công, hoàn thiện hạ tầng để thu hút các dự án đầu tư thứ cấp và 06
cụm công nghiệp đã thành lập/264,76 ha. Khu
công nghiệp Cà Ná, với diện
tích 827,2 ha đang trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định chủ trương đầu tư giai
đoạn 1, với 378 ha. Đến
nay đã thu hút được 22 dự án, nâng tổng số 66 dự án thứ cấp đầu tư
vào Khu, cụm công nghiệp, với tỷ lệ lấp đầy các Khu công nghiệp hiện có đạt 28,4%.
Hệ thống giao thông được tập trung xây dựng đồng bộ, theo
hướng hiện đại tạo thành mạng lưới giao thông hợp lý, tính kết nối cao, tạo
động lực lan tỏa để thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển; ưu tiên đầu
tư hạ tầng giao thông quan trọng, có tính đột phá; các tuyến kết nối cao tốc
Bắc Nam, các tuyến quốc lộ đến Khu công nghiệp, hệ thống cảng biển và các trục
nối vùng kinh tế trọng điểm; dự án
Đường nối từ thị trấn Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận đi ngã tư Tà
Năng, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, tuyến
đường vành đai tỉnh và Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, tuyến đường giao thông kết nối liên vùng từ Cảng Cà Ná - Quốc
lộ 1 - Cao tốc - Nam Tây Nguyên có ý nghĩa rất quan trọng đối với tỉnh Ninh
Thuận, đây sẽ là tuyến đường chiến lược, có vai trò quan trọng trong việc đánh
thức và khai thác tiềm năng Cảng biển tổng hợp Cà Ná. Các dự án Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam được quan tâm đầu tư: Cảng biển tổng hợp Cà Ná giai đoạn 1 có khả năng
tiếp nhận tàu đến 100.000 tấn, đang đẩy nhanh triển khai bến 1B và kêu gọi đầu
tư giai đoạn 2. Kêu gọi đầu tư đường sắt nối từ Cảng Cà Ná đến đường sắt thống
nhất, Cảng cạn, Trung tâm
Logistics, Tổng kho xăng dầu, Dự án LNG Cà Ná 1.500MW.
Về kết quả phát
triển các ngành công nghiệp, phát
triển đột phá công nghiệp năng lượng, năng
lượng tái tạo: Giai đoạn 2021-2024 tỉnh thu hút được 02 dự
án mới; chủ yếu tiếp tục triển khai đầu tư các dự
án chuyển tiếp đã được cấp chủ trương đầu tư từ năm 2020 trở về trước. Đến nay,
có 57 dự án năng lượng hoàn thành đưa vào vận hành với tổng
công suất 3.749,9 MW,
dự kiến năm 2024 sản lượng
điện phát lên lưới đạt 8.700 triệu kWh, tăng 87,3% so với năm 2020; giải quyết việc làm khoảng 4.150
lao động, năng suất lao động tăng 29,7% so với năm 2020; ngoài ra, Tỉnh quan tâm định hướng phát triển nguồn năng lượng Hydro từ việc sử
dụng năng lượng tái tạo tại chỗ hướng đến ngành công nghiệp xanh phù hợp với
cam kết tại COP26.
Công
nghiệp chế biến, chế tạo có lợi thế theo hướng hội nhập, thân thiện môi trường
và tiết kiệm năng lượng. Đến nay, đã kêu
gọi và thu hút 22 dự án công nghiệp chế biến, chế tạo; nâng tổng số 66 dự án
thứ cấp trong Khu, Cụm công nghiệp với tổng vốn đầu tư 5.684,15 tỷ đồng (trong
đó vốn FDI 1.626,87 tỷ đồng; chiếm 28,6% tổng vốn đầu tư); tiếp tục đôn đốc khởi công, hoàn thành đưa vào hoạt động các dự án mới để tạo
năng lực mới, đóng góp năng lực tăng thêm cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Các ngành công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thực phẩm, đồ uống gắn với nguồn nguyên liệu
của địa phương đã tiến hành nâng công suất, mở rộng hoạt động sản xuất của một
số dự án; ước giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế
biến, chế
tạo năm 2024 đạt 8.439 tỷ đồng, tăng 58,6% so với năm 2020, đạt
68,7% (mục tiêu đến năm 2025 đạt 12.277,7 tỷ
đồng); giải quyết việc làm khoảng 18.950 lao động, năng suất lao động tăng 6%
so năm 2020.
Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất vật liệu xây dựng:
Tỉnh đã thu hút đầu tư mới 17 dự án khai
thác, chế biến khoáng sản, 02 dự án sản xuất vật liệu xây dựng. Tiếp tục duy trì, nâng cao năng lực
sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng truyền thống: gạch nung, gạch không
nung, xi măng, đá xây dựng,…vận động áp dụng đổi mới công nghệ
tiên tiến, máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại thông qua hỗ trợ từ Chương trình
sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Về công nghiệp nặng: Tỉnh đã thu hút 01 dự án đang triển khai các thủ
tục đầu tư. Các
ngành công nghiệp khác (dệt may, bao bì, phân bón, cơ khí,…). Bên cạnh các ngành
công nghiệp chủ lực (công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến), tỉnh còn tăng
cường xúc tiến đầu tư phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt đối với các ngành sản xuất tận dụng
nguồn nguyên liệu, phụ liệu phế phẩm,…; đến nay, đã thu hút đầu tư 04 dự án may
mặc, 02 dự án sản xuất đồ chơi trẻ em, 01 dự án chế tạo, sửa chữa kết cấu thép;
trong đó, có 05 dự án đã đi vào hoạt động,
các dự án còn lại đang triển
khai.
Phát
triển tiểu thủ công nghiệp và ngành
nghề nông thôn: Đến nay, toàn tỉnh có 182 sản phẩm OCOP của 81 chủ thể được
công nhận mang những nét đặc trưng, đặc
thù của địa phương và đã có mặt trên các sàn thương mại điện tử, siêu thị,
khách sạn,... Chương trình OCOP đã tạo điều kiện phát triển các mô hình sản xuất
mới mang hiệu quả kinh tế cao. Công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật mới góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất
các sản phẩm nông nghiệp; công các xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu nông sản
được quan tâm; các sáng chế, giải pháp hữu ích góp phần tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm nông sản tỉnh nhà và thuận lợi hơn trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Qua đó, đã phát triển được một số loại hình
kinh tế hợp tác có hiệu quả, làm cơ sở nhân rộng trong thời gian tới; hình
thành và phát triển được một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung có liên kết
hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Về phát triển nhanh
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng: tỉnh đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết về
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các ngành
kinh tế trọng điểm của tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm đáp ứng yêu
cầu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế trọng điểm, nâng
cao hiệu quả sản xuất ngành công nghiệp, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
nhanh và bền vững; đến nay tỷ lệ cơ cấu lao
động trong nền kinh tế công nghiệp-xây dựng chiếm 21,4%; tỷ lệ lao động có
trình độ cao trong 4 ngành kinh tế trọng điểm, năng lượng tái tạo chiếm 17,5%.
Tập trung chỉ đạo,
thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực giáo dục nghề nghiệp; triển khai thực hiện nghiên cứu
lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia đào tạo và hỗ trợ nguồn nhân lực
cho các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu sử dụng của các doanh nghiệp thuộc ngành
công nghiệp năng lượng.
Trong giai đoạn 2022-6/2024 trên địa bàn tỉnh đã tổ chức tuyển mới và dạy nghề
cho 26.396 người; tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn được 8.303 người.
Về thu hút nguồn
vốn đầu tư từ các doanh nghiệp, các nguồn vốn, chương trình, dự án để phát
triển công nghiệp: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư
được chuyển dịch tích cực, theo hướng giảm dần tỷ trọng nguồn vốn ngân sách nhà
nước, tăng tỷ trọng vốn các thành phần kinh tế, dân cư; cơ cấu đầu tư khu vực
doanh nghiệp ngày càng cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến nay, tỉnh đã cấp chủ trương/Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư cho 473 dự án với tổng vốn đăng ký 240.458 tỷ đồng; trong
đó: Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có 110 dự án, với tổng vốn đăng ký 48.424 tỷ
đồng; điện gió, điện mặt trời có 57 dự án,
với tổng vốn đăng ký 125.015 tỷ đồng. Vốn
đầu tư công bố trí 337,06 tỷ đồng để đầu tư hạ kỹ thuật Khu công nghiệp Thành
Hải và Cụm công nghiệp Quảng Sơn; dự án phát triển Trường Cao đẳng nghề thành trường chất lượng cao đến
năm 2025 được đầu tư với tổng mức đầu tư 71,862
tỷ đồng.
Công tác quản lý
nhà nước về công nghiệp: Tỉnh chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các nhóm
giải pháp về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp với mục tiêu hướng tới cải cách
mạnh mẽ thủ tục hành chính, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền bình
đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Quy hoạch đất phục
vụ phát triển công nghiệp đến năm 2025 là 9.648 ha; trong đó: đất khu công nghiệp
1.233 ha, đất cụm công nghiệp 692 ha, đất sản xuất phi nông
nghiệp 659 ha, đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản 199 ha, đất
công trình năng lượng 6.865 ha. Phát triển
công
nghiệp gắn với thực hiện chính sách khai thác hiệu quả tài nguyên khoáng sản,
bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực hiện đầy đủ, nghiêm
ngặt quy trình đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đăng ký đầu
tư trước khi tiến hành đầu tư. Nâng cao năng lực quản lý, thanh tra bảo vệ môi
trường gắn với kiểm tra, giám sát và thực hiện quan trắc môi trường, bảo đảm
phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.