Kết quả thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030

Qua 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU, ngày 19/01/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng các cấp ủy, chính quyền, địa phương đã quyết tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện đến nay đạt được những kết quả tích cực bước đầu.

         Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận đoàn thể, các cơ quan, đơn vị địa phương trong tỉnh đã tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền đến toàn thể cán bộ đảng viên và các tầng lớp Nhân dân với các hình thức phong phú. Toàn tỉnh đã tổ chức được 466 lớp nghiên cứu, học tập, quán triệt cho 23.421 cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, quần chúng cốt cán; trong đó có 19.386/19.828 đồng chí là đảng viên, đạt tỷ lệ 97,8% và 14.894 quần chúng cốt cán. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã biên soạn, xuất bản 2.100 cuốn tài liệu “các nghị quyết chuyên đề của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận khóa XIV” để tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên và mở rộng trong Nhân dân; đồng thời đã chỉ đạo, định hướng các cơ quan truyền thông trên địa bàn tỉnh tuyên truyền sâu kỹ về nội dung Nghị quyết số 18-NQ/TU đến các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh.

Kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu:

- Giá trị sản xuất công nghiệp ước năm 2024 đạt 16.449,4 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2024 đạt 15,92% (mục tiêu giai đoạn 2021-2025 tăng 17-18%). Trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 20,02%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 12,22%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước tăng 21,48%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,73%.

- Tỷ trọng ngành công nghiệp dự kiến năm 2024 chiếm 31,28% giá trị GRDP toàn tỉnh (mục tiêu 29-30%).

- Tổng công suất các nhà máy điện đưa vào vận hành: Tính đến hết ngày 30/6/2024, trên địa bàn tỉnh đã đầu tư và đưa vào vận hành thương mại (COD) với tổng công suất 3.749,9 MW. Trong đó điện mặt trời tập trung 2.466,79MW; điện mặt trời mái nhà 286,4MW; điện gió 667,25MW; thủy điện 329,5MW (mục tiêu 6.500MW).

- Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, đã thu hút được 22 dự án thứ cấp đầu tư vào Khu, cụm công nghiệp; tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp hiện có đạt 28,4% (mục tiêu 50% trở lên).

- Chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm năng lượng, năng lượng tái tạo của cả nước đạt kết quả tích cực; khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế, tiếp tục khẳng định là trụ cột, động lực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, nhất là trong 2 năm dịch COVID-19, cụ thể: Tỷ trọng ngành năng lượng chiếm 22,76% GRDP của tỉnh và đóng góp 23,69% tổng thu ngân sách tỉnh; giải quyết việc làm khoảng 4.150 lao động, chiếm 1,8% nhu cầu lao động trong 4 ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh; tổng công suất lắp đặt các nguồn năng lượng so với cả nước chiếm trên 4,6% (3.749MW/80.704MW); sản lượng điện tiêu thụ toàn Tỉnh năm 2023 đạt 12,41%.

- Tập trung phát triển công nghiệp năng lượng, cảng biển, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ trợ và một số ngành công nghiệp khác: đã tập trung thu hút nhiều dự án năng lượng tái tạo, năng lượng mới, phát triển Cảng biển tổng hợp Cà Ná (Giai đoạn 1,2), các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có nhiều khởi sắc, đã có nhiều nhà đầu tư quan tâm đăng ký sản xuất công nghiệp hóa chất sau muối, phát triển công nghiệp phụ trợ sản xuất kết cấu thép, công nghiệp nặng.

 

Khu công nghiệp Du Long (Thuận Bắc). Ảnh: Báo Ninh Thuận.

Kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp:

Về hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách phát triển công nghiệp: Trong giai đoạn 2021-2024 đã xây dựng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; trong đó, xác định “phát triển năng lượng, năng lượng tái tạo là trụ cột, là động lực và là một trong những ngành đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội”; “Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế biến các sản phẩm đặc thù, tổ hợp sản xuất, hóa chất sau muối. Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo gắn với cảng biển và trung tâm logistics theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường, tăng trưởng xanh”, “phát triển ngành nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phục vụ công nghiệp chế biến, hướng đến xuất khẩu”. Đề xuất danh mục 04 khu công nghiệp/1.682 ha và 19 cụm công nghiệp/770,04 ha dự kiến phát triển trong phương án phát triển Khu, cụm công nghiệp tỉnh Ninh Thuận tích hợp vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, tổ chức thành công Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư đã tạo hiệu ứng lan tỏa thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư; hiện tỉnh đang trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh.

Các cơ chế, chính sách cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: đã kiến nghị Bộ Công Thương tích hợp Đề án phát triển điện gió ngoài khơi; tham mưu bổ sung mới các nguồn năng lượng Điện mặt trời; điện gió ngoài khơi Mũi Dinh (2.000MW); dự án thủy điện tích năng Phước Hòa, công suất 1.200MW; Quy hoạch điện gió trên đất liền tổng công suất 1.159 MW; Quy hoạch điện gió ven biển giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với tổng công suất 4.380 MW; Đề án tổng thể phát triển điện gió ngoài khơi tổng công suất dự kiến khoảng 21.000MW; Quy hoạch điện mặt trời giai đoạn đến năm 2030 thêm 6.031MW; Bổ sung Quy hoạch điện khí LNG Cà Ná giai đoạn 2, 3 tổng công suất 4.500MW; thủy điện vừa và nhỏ tổng công suất khoảng 120MW. Các dự án năng lượng vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; kiến nghị hỗ trợ giải quyết khó khăn của các doanh nghiệp đầu tư phát triển năng lượng. Ban hành 01 Nghị quyết, 01 Quyết định, 05 Kế hoạch để quản lý, chỉ đạo điều hành phát triển trên lĩnh vực năng lượng.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 39-CT/TU về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đến năm 2025. Công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tăng cường thu hút đầu tư luôn được chỉ đạo, quan tâm thực hiện; tổ chức Hội thảo đánh giá và phân tích các nội dung tác động đến Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; tổ chức gặp mặt doanh nghiệp định kỳ hàng tháng. Thường xuyên cập nhật, đăng tải thông tin trên trang tin điện tử về các cơ chế, chính sách mới, thủ tục hành chính, tình hình hoạt động liên quan đến chính sách đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhằm đáp ứng kịp thời công tác thông tin, quảng bá, định hướng phát triển công nghiệp địa phương mang tính đặc thù, lợi thế, thu hút đầu tư. Đến nay, tỉnh cấp Quyết định chủ trương/Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 473 dự án với tổng vốn đăng ký 240.458 tỷ đồng.

Tăng cường kêu gọi, thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm, có lợi thế: Tỉnh ban hành danh mục 55 dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư và danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào các khu công nghiệp đến năm 2025; đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, qua đó mời gọi đầu tư vào các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư, các dự án tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của và các dự án năng lượng khác. Đồng thời, nghiên cứu xu hướng chuyển dịch và đón đầu sự chuyển dịch đầu tư từ các tỉnh phía Nam để thực hiện các hoạt động tư vấn, thu hút đầu tư về  tỉnh đối với một số dự án như Hydro, điện gió; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án; hỗ trợ, tạo kênh thông tin chính thống để các doanh nghiệp, nhà đầu tư phản ánh, kiến nghị các khó khăn, vướng mắc phát sinh; hỗ trợ tặng miễn phí phần mềm kế toán cho doanh nghiệp thành lập mới, hỗ trợ chuyển đổi số, hóa đơn điện tử...

Về triển khai đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút các nguồn lực để phát triển các nhóm ngành công nghiệp, củng cố và nâng cao chất lượng dịch vụ công nghiệp: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 03 Khu công nghiệp/855,267 ha đã được cấp quyết định chủ trương đầu tư, đang đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thiện hạ tầng để thu hút các dự án đầu tư thứ cấp và 06 cụm công nghiệp đã thành lập/264,76 ha. Khu công nghiệp Cà Ná, với diện tích 827,2 ha đang trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư giai đoạn 1, với 378 ha. Đến nay đã thu hút được 22 dự án, nâng tổng số 66 dự án thứ cấp đầu tư vào Khu, cụm công nghiệp, với tỷ lệ lấp đầy các Khu công nghiệp hiện có đạt 28,4%.

Hệ thống giao thông được tập trung xây dựng đồng bộ, theo hướng hiện đại tạo thành mạng lưới giao thông hợp lý, tính kết nối cao, tạo động lực lan tỏa để thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển; ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông quan trọng, có tính đột phá; các tuyến kết nối cao tốc Bắc Nam, các tuyến quốc lộ đến Khu công nghiệp, hệ thống cảng biển và các trục nối vùng kinh tế trọng điểm; dự án Đường nối từ thị trấn Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận đi ngã tư Tà Năng, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, tuyến đường vành đai tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tuyến đường giao thông kết nối liên vùng từ Cảng Cà Ná - Quốc lộ 1 - Cao tốc - Nam Tây Nguyên có ý nghĩa rất quan trọng đối với tỉnh Ninh Thuận, đây sẽ là tuyến đường chiến lược, có vai trò quan trọng trong việc đánh thức và khai thác tiềm năng Cảng biển tổng hợp Cà Ná. Các dự án Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được quan tâm đầu tư: Cảng biển tổng hợp Cà Ná giai đoạn 1 có khả năng tiếp nhận tàu đến 100.000 tấn, đang đẩy nhanh triển khai bến 1B và kêu gọi đầu tư giai đoạn 2. Kêu gọi đầu tư đường sắt nối từ Cảng Cà Ná đến đường sắt thống nhất, Cảng cạn, Trung tâm Logistics, Tổng kho xăng dầu, Dự án LNG Cà Ná 1.500MW.

Về kết quả phát triển các ngành công nghiệp, phát triển đột phá công nghiệp năng lượng, năng lượng tái tạo: Giai đoạn 2021-2024 tỉnh thu hút được 02 dự án mới; chủ yếu tiếp tục triển khai đầu tư các dự án chuyển tiếp đã được cấp chủ trương đầu tư từ năm 2020 trở về trước. Đến nay,57 dự án năng lượng hoàn thành đưa vào vận hành với tổng công suất 3.749,9 MW, dự kiến năm 2024 sản lượng điện phát lên lưới đạt 8.700 triệu kWh, tăng 87,3% so với năm 2020; giải quyết việc làm khoảng 4.150 lao động, năng suất lao động tăng 29,7% so với năm 2020; ngoài ra, Tỉnh quan tâm định hướng phát triển nguồn năng lượng Hydro từ việc sử dụng năng lượng tái tạo tại chỗ hướng đến ngành công nghiệp xanh phù hợp với cam kết tại COP26.

Công nghiệp chế biến, chế tạo có lợi thế theo hướng hội nhập, thân thiện môi trường và tiết kiệm năng lượng. Đến nay, đã kêu gọi và thu hút 22 dự án công nghiệp chế biến, chế tạo; nâng tổng số 66 dự án thứ cấp trong Khu, Cụm công nghiệp với tổng vốn đầu tư 5.684,15 tỷ đồng (trong đó vốn FDI 1.626,87 tỷ đồng; chiếm 28,6% tổng vốn đầu tư); tiếp tục đôn đốc khởi công, hoàn thành đưa vào hoạt động các dự án mới để tạo năng lực mới, đóng góp năng lực tăng thêm cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thực phẩm, đồ uống gắn với nguồn nguyên liệu của địa phương đã tiến hành nâng công suất, mở rộng hoạt động sản xuất của một số dự án; ước giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2024 đạt 8.439 tỷ đồng, tăng 58,6% so với năm 2020, đạt 68,7% (mục tiêu đến năm 2025 đạt 12.277,7 tỷ đồng); giải quyết việc làm khoảng 18.950 lao động, năng suất lao động tăng 6% so năm 2020.

Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất vật liệu xây dựng: Tỉnh đã thu hút đầu tư mới 17 dự án khai thác, chế biến khoáng sản, 02 dự án sản xuất vật liệu xây dựng. Tiếp tục duy trì, nâng cao năng lực sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng truyền thống: gạch nung, gạch không nung, xi măng, đá xây dựng,…vận động áp dụng đổi mới công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại thông qua hỗ trợ từ Chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Về công nghiệp nặng: Tỉnh đã thu hút 01 dự án đang triển khai các thủ tục đầu tư. Các ngành công nghiệp khác (dệt may, bao bì, phân bón, cơ khí,…). Bên cạnh các ngành công nghiệp chủ lực (công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến), tỉnh còn tăng cường xúc tiến đầu tư phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt đối với các ngành sản xuất tận dụng nguồn nguyên liệu, phụ liệu phế phẩm,…; đến nay, đã thu hút đầu tư 04 dự án may mặc, 02 dự án sản xuất đồ chơi trẻ em, 01 dự án chế tạo, sửa chữa kết cấu thép; trong đó, có 05 dự án đã đi vào hoạt động, các dự án còn lại đang triển khai.

Phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn: Đến nay, toàn tỉnh có 182 sản phẩm OCOP của 81 chủ thể được công nhận  mang những nét đặc trưng, đặc thù của địa phương và đã có mặt trên các sàn thương mại điện tử, siêu thị, khách sạn,... Chương trình OCOP đã tạo điều kiện phát triển các mô hình sản xuất mới mang hiệu quả kinh tế cao. Công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất các sản phẩm nông nghiệp; công các xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu nông sản được quan tâm; các sáng chế, giải pháp hữu ích góp phần tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản tỉnh nhà và thuận lợi hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Qua đó, đã phát triển được một số loại hình kinh tế hợp tác có hiệu quả, làm cơ sở nhân rộng trong thời gian tới; hình thành và phát triển được một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung có liên kết hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Về phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng: tỉnh đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm đáp ứng yêu cầu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế trọng điểm, nâng cao hiệu quả sản xuất ngành công nghiệp, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững; đến nay tỷ lệ cơ cấu lao động trong nền kinh tế công nghiệp-xây dựng chiếm 21,4%; tỷ lệ lao động có trình độ cao trong 4 ngành kinh tế trọng điểm, năng lượng tái tạo chiếm 17,5%.

Tập trung chỉ đạo, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực giáo dục nghề nghiệp; triển khai thực hiện nghiên cứu lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia đào tạo và hỗ trợ nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu sử dụng của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp năng lượng. Trong giai đoạn 2022-6/2024 trên địa bàn tỉnh đã tổ chức tuyển mới và dạy nghề cho 26.396 người; tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn được 8.303 người.

Về thu hút nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp, các nguồn vốn, chương trình, dự án để phát triển công nghiệp: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư được chuyển dịch tích cực, theo hướng giảm dần tỷ trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng vốn các thành phần kinh tế, dân cư; cơ cấu đầu tư khu vực doanh nghiệp ngày càng cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến nay, tỉnh đã cấp chủ trương/Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 473 dự án với tổng vốn đăng ký 240.458 tỷ đồng; trong đó: Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có 110 dự án, với tổng vốn đăng ký 48.424 tỷ đồng; điện gió, điện mặt trời có 57 dự án, với tổng vốn đăng ký 125.015 tỷ đồng. Vốn đầu tư công bố trí 337,06 tỷ đồng để đầu tư hạ kỹ thuật Khu công nghiệp Thành Hải và Cụm công nghiệp Quảng Sơn; dự án phát triển Trường Cao đẳng nghề thành trường chất lượng cao đến năm 2025 được đầu tư với tổng mức đầu tư 71,862 tỷ đồng.

Công tác quản lý nhà nước về công nghiệp: Tỉnh chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các nhóm giải pháp về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp với mục tiêu hướng tới cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Quy hoạch đất phục vụ phát triển công nghiệp đến năm 2025 là 9.648 ha; trong đó: đất khu công nghiệp 1.233 ha, đất cụm công nghiệp 692 ha, đất sản xuất phi nông nghiệp 659 ha, đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản 199 ha, đất công trình năng lượng 6.865 ha. Phát triển công nghiệp gắn với thực hiện chính sách khai thác hiệu quả tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực hiện đầy đủ, nghiêm ngặt quy trình đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đăng ký đầu tư trước khi tiến hành đầu tư. Nâng cao năng lực quản lý, thanh tra bảo vệ môi trường gắn với kiểm tra, giám sát và thực hiện quan trắc môi trường, bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.

Tác giả: Trần Việt Đức
Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image
Hệ thống quản lý văn bản điều hành
Hệ thống thông tin tổng hợp
Thống kê truy cập
  • Đang online: 18
  • Hôm nay: 827
  • Trong tuần: 7 809
  • Tất cả: 921 334
Đăng nhập
Chung nhan Tin Nhiem Mang