Công tác bảo tồn hệ sinh thái biển và bảo vệ môi trường biển vẫn là bài
toán nan giải ở nước ta, bởi việc xác định mức độ ô nhiễm, khả năng ứng phó kịp
thời khi sự cố xảy ra trên biển đến nay vẫn còn hạn chế.

Đoàn
viên, thanh niên tỉnh Ninh Thuận tích cực tham gia
thu
gon rác tại bãi biễn Bình Sơn – Ninh Chử . Ảnh BNT
Nhiều thách thức
Việt Nam đang đứng trước những thách thức về môi
trường biển như ô nhiễm nhựa đại dương, nguồn thải lục địa, sự cố môi trường,
biến đổi khí hậu. Tình trạng ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng phát sinh do
sức ép tăng trưởng kinh tế, du lịch, khai khoáng và sử dụng kém hiệu quả các
nguồn tài nguyên biển.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê, năm 2019, nước ta
có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển với tổng dân số khoảng 51
triệu người. Với chiều dài đường bờ biển trên 3.260km, diện tích vùng biển trên
1 triệu km2, hệ thống đô thị ven biển trải dài dọc bờ biển từ Bắc đến
Nam, nền kinh tế biển phát triển mạnh ở hầu hết các tỉnh, thành có biển, mang về
nguồn lợi vô cùng to lớn.
Tuy nhiên, chính sự phát triển của kinh tế - xã hội
đã tạo ra một áp lực lớn đến môi trường biển Việt Nam. Theo Báo cáo hiện trạng
môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016-2020 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, có đến 70% các khu, điểm du lịch trong cả nước tập trung khu vực
ven biển, không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị (hệ thống cung cấp điện, nước,
hệ thống xử lý chất thải khi nhu cầu sử dụng điện, nước) mà còn tác động đến
không gian của các đô thị ven biển, gây ra sự thay đổi cảnh quan ven biển.
Hơn nữa, vấn nạn ô nhiễm môi trường biển đã trở
nên nhức nhối trong nhiều năm nay. Các nguồn thải chính được đề cập trong báo
cáo gồm nguồn thải từ hoạt động dân cư (sinh hoạt, kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ);
nguồn thải từ hoạt động công nghiệp (khu công nghiệp, cụm công nghiệp; khai
thác khoáng sản); nguồn thải từ hàng hải trên biển; nuôi trồng thủy hải sản
trên biển; khai thác, thăm dò dầu khí trên biển.
Phần lớn các chất thải từ đất liền tác động gián
tiếp đến môi trường nước biển và hải đảo thông qua các cửa sông ven biển. Kết
quả thống kê cho thấy, có 74% lượng chất thải rắn của các địa phương có biển được
thu gom (năm 2019); lượng nước thải sinh hoạt đô thị phát sinh khoảng 122 - 163
triệu m3/ngày. Tình trạng ô nhiễm biển đã được ghi nhận ở nhiều khu
du lịch ven biển từ Bắc vào Nam như Cửa Lục, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Nha Trang và
Vũng Tàu...
Bên cạnh đó, các hệ sinh thái biển đang bị khai
thác quá mức, thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học.
Kết quả nghiên cứu của FAO và một số tổ chức quốc tế khác trong những năm gần
đây đều chỉ ra rằng khoảng hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài
khơi của Việt Nam đã bị khai thác, trong đó có đến 25% lượng cá bị khai thác
quá mức hoặc khai thác cạn kiệt; sản lượng đánh bắt giảm đáng kể; nhiều loài
sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Hành động ngay vì môi trường
biển
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ rõ hạn chế hiện nay
là chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá toàn diện về thải lượng các chất ô nhiễm
trực tiếp xả thải ra môi trường biển, phần lớn các nghiên cứu tập trung phân
tích, tính toán thải lượng của một ngành nghề hoặc một hoạt động phát thải ra
vùng biển. Việc đo lường tác động của những vấn đề mang tính toàn cầu như ô nhiễm
nhựa đại dương, biến đổi khí hậu vẫn còn hạn chế. Nói cách khác, bức tranh ô
nhiễm biển tại Việt Nam có thể còn nghiêm trọng hơn những số liệu hiện có, đặt
ra thách thức và áp lực lớn trong công tác quản lý chất thải trên biển, bảo tồn
hệ sinh thái biển và bảo vệ biển ở nước ta.
TS. Nguyễn Mạnh Hà - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn
thiên nhiên và Phát triển (CCD) nhận định: “Công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở
Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào bảo tồn những hệ sinh thái trên cạn, vấn đề
bảo tồn hệ sinh thái biển và bảo tồn biển đang bị coi nhẹ bởi hai lý do. Một
là, Việt Nam còn là nước nghèo nên đầu tư về đa dạng sinh học không thể bằng
các nước khác. Trong khi đó, vấn đề đại dương là vấn đề lớn, bị ảnh hưởng bởi rất
nhiều tác động khác nhau như rác thải, ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu, do
đó đòi hỏi nỗ lực chung và nguồn đầu tư lớn. Hai là, mặc dù các quan trắc và
nghiên cứu về vấn đề biển vẫn được tiến hành nhưng chưa được quan tâm nhiều như
các vấn đề trên cạn. Dư luận có thể tranh luận gay gắt về vấn đề buôn bán hổ,
tê tê, chim hoang dã… nhưng chỉ ít người nói đến nạn buôn bán lậu các loài thủy
sản quý hiếm”.
Vài năm gần đây, vấn đề suy thoái hệ sinh thái biển,
rác thải đại dương cùng sự sụt giảm các nguồn lợi đi kèm dần được quan tâm hơn,
khi những vấn nạn này đã trở nên quá rõ ràng và không thể chối bỏ.
Dù biển bao phủ hơn 70% bề mặt Trái Đất, cung cấp
nhiều nguồn tài nguyên dồi dào cho sự sống và sự phát triển kinh tế - xã hội
như muối, cá, tôm, dầu mỏ, khí tự nhiên... nhưng biển cả không phải tài nguyên
vô tận, vẫn có thể cạn kiệt và suy thoái. Nếu không có những giải pháp, hành động
kịp thời, với sự chung tay của toàn thể xã hội để bảo vệ tài nguyên quý giá này
thì hậu quả sẽ khó lường. Bảo vệ biển không chỉ là bảo vệ môi trường chung của
con người và các loài sinh vật sống trong đó mà còn bảo vệ tương lai của cả
nhân loại.
Hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới, Tuần lễ Biển
và Hải đảo Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Tổng cục
Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã tổ chức cầu truyền hình trực tiếp “Khát
vọng Đại dương xanh” tại 2 điểm cầu là Hà Nội và Khánh Hòa. Chương trình truyền
tải thông điệp về vai trò to lớn của biển và đại dương đối với sự sinh tồn của
loài người, góp phần nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ, bảo tồn và phát
huy giá trị của tài nguyên và môi trường biển, đảo. Là một quốc gia biển, Việt
Nam có khát vọng muôn đời là chinh phục biển, thịnh vượng từ biển và giữ hòa
bình cho biển; khẳng định tiềm lực lớn về kinh tế biển và quyết tâm phát triển
toàn diện kinh tế biển đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường vùng biển, đảo;
thể hiện ý chí bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và các lợi ích hợp pháp của
Việt Nam trên biển.
Theo Tạp chí Tuyên giáo