Nhìn lại dòng lịch sử kể
từ khi đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, xuất phát từ lòng yêu
nước và ý chí kiên cường của dân tộc mà mối quan hệ đoàn kết quân - dân đã nảy
nở, hình thành, phát triển và ngày càng bền chặt như một lẽ tự nhiên, như cây
và đất, như nước với nguồn. Sợi dây liên kết đó không phải hô hào mới có, mà vốn
dĩ nó đã có và thấm sâu trong trái tim mỗi người dân, mỗi người lính “Bộ đội Cụ
Hồ”; nó được tôi luyện trải dài xuyên suốt qua những năm tháng chiến tranh chống
Pháp, Mỹ như mạch nước ngầm từ lòng đất, âm thầm chảy qua từng thửa ruộng, ngọn
đồi, kết nối bền chặt giữa hậu phương và tiền tuyến, để khi cần thì lại bùng
lên, tạo nên sức mạnh cuồn cuộn, vượt qua mọi thử thách, gian nan, chiến thắng
những kẻ thù hùng mạnh hơn ta gấp rất nhiều lần.
Khi cách mạng bước
vào những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, mối
quan hệ quân – dân đã phát triển mạnh mẽ và đóng góp to lớn vào tiến trình cách
mạng Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước đứng
trước nhiều khó khăn, trong đó, thực dân Pháp quay lại xâm lược, đe dọa sự độc
lập còn non trẻ của của dân tộc Việt Nam. Trong hoàn cảnh cam go ấy, quân - dân
Việt Nam đã sát cánh bên nhau, vượt mọi gian khổ, khó khăn, chung sức đấu tranh
để bảo vệ tự do. Một trong những biểu tượng của tinh thần đoàn kết quân – dân
là hình ảnh vùng Việt Bắc, nơi mà Nhân dân đã gồng gánh tiếp tế cho các chiến
sĩ giữa những hiểm nguy rình rập. Đồng bào nơi đây không chỉ cung cấp lương thực,
thuốc men mà còn giúp đỡ, che giấu bộ đội, bảo vệ họ khỏi sự truy lùng của kẻ
thù. Nhiều người dân đã rời bỏ ruộng, vườn, dốc hết sức mình để làm dân công hỏa
tuyến, mang từng bao gạo, đẩy từng xe lương thực tiếp tế cho các trận đánh. Các
chiến sĩ cũng không ngần ngại sẻ chia, giúp đỡ dân chúng giữa bão táp chiến
tranh, cùng nhau tạo nên một mặt trận đoàn kết chống giặc rất đỗi hào hùng và
cũng rất đỗi chứa chan tình cảm quân – dân ngay giữa lòng mưa bom bão đạn.

Bộ đội Cụ Hồ, đi dân nhớ ở dân thương
(Ảnh: Báo Quân đội)
Chiến dịch Điện Biên
Phủ năm 1954 là minh chứng rõ nét nhất cho sự gắn kết quân – dân. Hàng vạn dân
công từ các vùng quê miền Bắc đã vượt hàng ngàn dặm đường rừng, không quản gian
khó, nắng mưa, ngày đêm vận chuyển vũ khí, quân lương tập trung về núi rừng Điện
Biên, rồi sau đó cùng bộ đội xây dựng hầm hào, đứng bếp nấu ăn, chuyển từng nắm
cơm, từng viên đạn đến tận tay mỗi người chiến sĩ. Những đóng góp âm thầm của
người dân đã tạo nên sức mạnh vượt trội về tinh thần cho quân đội, giúp họ chiến
thắng trong cuộc chiến kéo dài và khốc liệt. Nhờ có sự hậu thuẫn của Nhân dân
mà quân đội ta không chỉ vượt qua khó khăn về hậu cần mà còn giữ vững tinh thần
chiến đấu trước sức ép của kẻ thù. Chính những người nông dân bình dị ấy đã biến
“cuộc chiến không cân sức” trở thành một trong những kỳ tích lịch sử của dân tộc,
khẳng định sức mạnh từ lòng dân là nguồn năng lượng bất diệt trong mọi thời đại.
Chuyển sang thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), mối quan hệ quân – dân càng được khẳng định và
là nhân tố quyết định trong hành trình giữ nước. Sau Hiệp định Geneva, miền Bắc
được giải phóng, trở thành hậu phương lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam. Đế
quốc Mỹ sử dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” rồi chuyển sang “Chiến tranh
cục bộ” với lực lượng quân đội mạnh mẽ, trang thiết bị tối tân, nhưng mối quan
hệ quân – dân đã giúp Việt Nam tạo nên một sức mạnh không thể khuất phục. Miền
Bắc là hậu phương lớn, nơi người dân không chỉ đóng góp lương thực, quân trang
mà còn hy sinh cả con người. Các bà mẹ tiễn con lên đường nhập ngũ, các cụ già
gói từng chiếc bánh, viên kẹo cho chiến sĩ… những hình ảnh giản dị ấy là minh
chứng cho tình yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam.

Dân công hỏa tuyến (Ảnh: Báo Quân đội)
Trong khi đó ở miền
Nam, người dân là hậu phương trực tiếp và sát cánh cùng bộ đội, hỗ trợ họ trên
từng chặng đường chiến đấu gian nan. Trong các cuộc hành quân dọc dãy Trường
Sơn, người dân không chỉ hướng dẫn bộ đội đi qua các vùng rừng núi hiểm trở mà
còn tiếp tế cho các đơn vị đang chiến đấu. Hình ảnh những người mẹ, người chị
miền Nam đội gạo, rau củ, vượt đèo núi hiểm nguy, đến các cứ điểm bộ đội để tiếp
tế trong hoàn cảnh vô cùng khốc liệt của chiến tranh, đã để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng dân tộc. Sức mạnh đoàn kết toàn dân còn được thể hiện qua những
chiến dịch lớn như chiến dịch Hồ Chí Minh, khi cả quân và dân cùng hướng tới mục
tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân đã không tiếc
sức người, sức của để cùng quân đội thực hiện những trận đánh mang tính quyết
định cho cuộc chiến.
Biểu tượng của tình
quân – dân trong thời kỳ kháng chiến còn được khắc sâu qua những hình ảnh ấm áp
về người dân tiếp tế lương thực, thuốc men; bộ đội chia sẻ từng bữa cơm, chén
nước với nhân dân trong các chiến hào đầy khói lửa. Những câu chuyện về bộ đội
giúp dân thu hoạch mùa màng, xây dựng nhà cửa hay người dân nuôi dưỡng, chăm
sóc thương binh trong làng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các tác phẩm
thơ ca, âm nhạc Việt Nam. Các bài hát như “Đường tôi đi dài theo đất
nước” (nhạc: Vũ Trọng Hối, lời: Xuân Sách); “Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn” (nhạc và lời: Lư Nhất Vũ) hay “Trường
Sơn đông, Trường Sơn tây” (nhạc: Hoàng Hiệp, thơ: Phạm Tiến Duật).v.v. đã
lưu giữ hình ảnh đẹp đẽ của tình quân – dân, khắc sâu vào tâm trí mỗi người Việt
về một thời kỳ mà Nhân dân và Quân đội Việt Nam là một khối đoàn kết vững chắc,
vượt qua mọi trở lực để giành lại hòa bình, thống nhất đất nước.
Những bài học quý giá
từ tinh thần đoàn kết quân – dân trong những năm tháng chiến tranh vẫn tiếp tục
soi sáng, nối tiếp bất tận cho mãi đến hôm nay. Trong thời kỳ hòa bình, vai trò
của quân đội không chỉ gói gọn trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà còn mở rộng
sang các hoạt động xây dựng kinh tế, xã hội, nhất là tại các vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo, nơi đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. Hình ảnh người
lính biên phòng sẵn sàng tay súng, ngày đêm canh giữ, vừa bảo vệ biên cương của
Tổ quốc vừa lên lớp, đưa cái chữ đến cho trẻ em vùng cao hay hình ảnh các chiến
sĩ hải quân bảo vệ biển đảo, đảm bảo an toàn cho ngư dân, đã trở thành những biểu
tượng của tình quân - dân trong thời bình. Không chỉ vậy, quân đội còn tham gia
tích cực vào việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống Nhân dân thông qua
các hoạt động dân sinh. Điều này không chỉ giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp của
quân đội mà còn củng cố mối quan hệ bền chặt, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần
ổn định tình hình chính trị, xã hội.
(Còn tiếp)./.