Củng cố và tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa Quân đội và Nhân dân trong giai đoạn hiện nay (Phần 1)

Năm 2024, Quân đội nhân dân Việt Nam kỷ niệm 80 năm thành lập, rèn luyện, chiến đấu và trưởng thành. Từ những bước chân đầu tiên trên con đường cứu nước cho đến ngày hôm nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, cùng nhau vượt qua muôn vàn thử thách, gian nan, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Chính từ sự gắn bó ấy mà Quân đội Việt Nam trở thành “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng dân tộc - một biểu tượng của lòng trung kiên, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và hết mình phục vụ Nhân dân.

Nhìn lại dòng lịch sử kể từ khi đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, xuất phát từ lòng yêu nước và ý chí kiên cường của dân tộc mà mối quan hệ đoàn kết quân - dân đã nảy nở, hình thành, phát triển và ngày càng bền chặt như một lẽ tự nhiên, như cây và đất, như nước với nguồn. Sợi dây liên kết đó không phải hô hào mới có, mà vốn dĩ nó đã có và thấm sâu trong trái tim mỗi người dân, mỗi người lính “Bộ đội Cụ Hồ”; nó được tôi luyện trải dài xuyên suốt qua những năm tháng chiến tranh chống Pháp, Mỹ như mạch nước ngầm từ lòng đất, âm thầm chảy qua từng thửa ruộng, ngọn đồi, kết nối bền chặt giữa hậu phương và tiền tuyến, để khi cần thì lại bùng lên, tạo nên sức mạnh cuồn cuộn, vượt qua mọi thử thách, gian nan, chiến thắng những kẻ thù hùng mạnh hơn ta gấp rất nhiều lần.

Khi cách mạng bước vào những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, mối quan hệ quân – dân đã phát triển mạnh mẽ và đóng góp to lớn vào tiến trình cách mạng Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước đứng trước nhiều khó khăn, trong đó, thực dân Pháp quay lại xâm lược, đe dọa sự độc lập còn non trẻ của của dân tộc Việt Nam. Trong hoàn cảnh cam go ấy, quân - dân Việt Nam đã sát cánh bên nhau, vượt mọi gian khổ, khó khăn, chung sức đấu tranh để bảo vệ tự do. Một trong những biểu tượng của tinh thần đoàn kết quân – dân là hình ảnh vùng Việt Bắc, nơi mà Nhân dân đã gồng gánh tiếp tế cho các chiến sĩ giữa những hiểm nguy rình rập. Đồng bào nơi đây không chỉ cung cấp lương thực, thuốc men mà còn giúp đỡ, che giấu bộ đội, bảo vệ họ khỏi sự truy lùng của kẻ thù. Nhiều người dân đã rời bỏ ruộng, vườn, dốc hết sức mình để làm dân công hỏa tuyến, mang từng bao gạo, đẩy từng xe lương thực tiếp tế cho các trận đánh. Các chiến sĩ cũng không ngần ngại sẻ chia, giúp đỡ dân chúng giữa bão táp chiến tranh, cùng nhau tạo nên một mặt trận đoàn kết chống giặc rất đỗi hào hùng và cũng rất đỗi chứa chan tình cảm quân – dân ngay giữa lòng mưa bom bão đạn.

Bộ đội Cụ Hồ, đi dân nhớ ở dân thương (Ảnh: Báo Quân đội)

Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là minh chứng rõ nét nhất cho sự gắn kết quân – dân. Hàng vạn dân công từ các vùng quê miền Bắc đã vượt hàng ngàn dặm đường rừng, không quản gian khó, nắng mưa, ngày đêm vận chuyển vũ khí, quân lương tập trung về núi rừng Điện Biên, rồi sau đó cùng bộ đội xây dựng hầm hào, đứng bếp nấu ăn, chuyển từng nắm cơm, từng viên đạn đến tận tay mỗi người chiến sĩ. Những đóng góp âm thầm của người dân đã tạo nên sức mạnh vượt trội về tinh thần cho quân đội, giúp họ chiến thắng trong cuộc chiến kéo dài và khốc liệt. Nhờ có sự hậu thuẫn của Nhân dân mà quân đội ta không chỉ vượt qua khó khăn về hậu cần mà còn giữ vững tinh thần chiến đấu trước sức ép của kẻ thù. Chính những người nông dân bình dị ấy đã biến “cuộc chiến không cân sức” trở thành một trong những kỳ tích lịch sử của dân tộc, khẳng định sức mạnh từ lòng dân là nguồn năng lượng bất diệt trong mọi thời đại.

Chuyển sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), mối quan hệ quân – dân càng được khẳng định và là nhân tố quyết định trong hành trình giữ nước. Sau Hiệp định Geneva, miền Bắc được giải phóng, trở thành hậu phương lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam. Đế quốc Mỹ sử dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” rồi chuyển sang “Chiến tranh cục bộ” với lực lượng quân đội mạnh mẽ, trang thiết bị tối tân, nhưng mối quan hệ quân – dân đã giúp Việt Nam tạo nên một sức mạnh không thể khuất phục. Miền Bắc là hậu phương lớn, nơi người dân không chỉ đóng góp lương thực, quân trang mà còn hy sinh cả con người. Các bà mẹ tiễn con lên đường nhập ngũ, các cụ già gói từng chiếc bánh, viên kẹo cho chiến sĩ… những hình ảnh giản dị ấy là minh chứng cho tình yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam.

Dân công hỏa tuyến (Ảnh: Báo Quân đội)

Trong khi đó ở miền Nam, người dân là hậu phương trực tiếp và sát cánh cùng bộ đội, hỗ trợ họ trên từng chặng đường chiến đấu gian nan. Trong các cuộc hành quân dọc dãy Trường Sơn, người dân không chỉ hướng dẫn bộ đội đi qua các vùng rừng núi hiểm trở mà còn tiếp tế cho các đơn vị đang chiến đấu. Hình ảnh những người mẹ, người chị miền Nam đội gạo, rau củ, vượt đèo núi hiểm nguy, đến các cứ điểm bộ đội để tiếp tế trong hoàn cảnh vô cùng khốc liệt của chiến tranh, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng dân tộc. Sức mạnh đoàn kết toàn dân còn được thể hiện qua những chiến dịch lớn như chiến dịch Hồ Chí Minh, khi cả quân và dân cùng hướng tới mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân đã không tiếc sức người, sức của để cùng quân đội thực hiện những trận đánh mang tính quyết định cho cuộc chiến.

Biểu tượng của tình quân – dân trong thời kỳ kháng chiến còn được khắc sâu qua những hình ảnh ấm áp về người dân tiếp tế lương thực, thuốc men; bộ đội chia sẻ từng bữa cơm, chén nước với nhân dân trong các chiến hào đầy khói lửa. Những câu chuyện về bộ đội giúp dân thu hoạch mùa màng, xây dựng nhà cửa hay người dân nuôi dưỡng, chăm sóc thương binh trong làng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các tác phẩm thơ ca, âm nhạc Việt Nam. Các bài hát như Đường tôi đi dài theo đất nước (nhạc: Vũ Trọng Hối, lời: Xuân Sách); Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (nhạc và lời: Lư Nhất Vũ) hay “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” (nhạc: Hoàng Hiệp, thơ: Phạm Tiến Duật).v.v. đã lưu giữ hình ảnh đẹp đẽ của tình quân – dân, khắc sâu vào tâm trí mỗi người Việt về một thời kỳ mà Nhân dân và Quân đội Việt Nam là một khối đoàn kết vững chắc, vượt qua mọi trở lực để giành lại hòa bình, thống nhất đất nước.

Những bài học quý giá từ tinh thần đoàn kết quân – dân trong những năm tháng chiến tranh vẫn tiếp tục soi sáng, nối tiếp bất tận cho mãi đến hôm nay. Trong thời kỳ hòa bình, vai trò của quân đội không chỉ gói gọn trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà còn mở rộng sang các hoạt động xây dựng kinh tế, xã hội, nhất là tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. Hình ảnh người lính biên phòng sẵn sàng tay súng, ngày đêm canh giữ, vừa bảo vệ biên cương của Tổ quốc vừa lên lớp, đưa cái chữ đến cho trẻ em vùng cao hay hình ảnh các chiến sĩ hải quân bảo vệ biển đảo, đảm bảo an toàn cho ngư dân, đã trở thành những biểu tượng của tình quân - dân trong thời bình. Không chỉ vậy, quân đội còn tham gia tích cực vào việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống Nhân dân thông qua các hoạt động dân sinh. Điều này không chỉ giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp của quân đội mà còn củng cố mối quan hệ bền chặt, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội.

(Còn tiếp)./.

Tác giả: CTV
Hệ thống quản lý văn bản điều hành
Hệ thống thông tin tổng hợp
Thống kê truy cập
  • Đang online: 4
  • Hôm nay: 529
  • Trong tuần: 7 418
  • Tất cả: 922 043
Đăng nhập
Chung nhan Tin Nhiem Mang