Một mùa Xuân mới đang
về, mang theo niềm hân hoan, sức sống mới trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Mùa
xuân này càng trở nên ý nghĩa hơn khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm
95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025) như một
mốc son chói lọi để cả nước bước vào một chặng đường phát triển mới, hướng tới
một tương lai rạng ngời.
Trong suốt 95 Xuân
qua, Đảng ta – đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam – đã lãnh đạo đất nước vượt qua muôn vàn gian nan, thử
thách, làm nên những thắng lợi, thành tựu vĩ đại, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch
sử vẻ vang của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm
dẫn đầu Đoàn công tác về làm việc với tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: TTXVN
Năm 1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt và với một sứ mệnh đặc biệt.
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta và áp đặt ách thống trị tàn
bạo, khiến dân tộc ta chịu cảnh nô lệ, lầm than. Với truyền thống yêu nước và
tinh thần không chịu khuất phục, nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh liên tục và
mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau, từ phong trào Cần
Vương đến khởi nghĩa Yên Thế, từ các phong trào Đông Du, Đông kinh Nghĩa Thục,
Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái... Nhân dân ta đã đấu tranh vô cùng anh dũng và
chịu nhiều hy sinh, nhưng đều không thành công vì thiếu một đường lối đúng đắn,
chưa tập hợp và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, thiếu một phương pháp
đấu tranh thích hợp và nhất là chưa có được một tổ chức lãnh đạo, một chính đảng
đáp ứng được yêu cầu của dân tộc và của thời đại.
Cùng lúc đó, trên thế
giới, sự phát triển của phong trào công nhân cùng thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 đã mở ra một chân trời mới, thắp sáng hy vọng cho các dân tộc
bị áp bức, bóc lột, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành độc lập trên khắp
các châu lục.
Trước yêu cầu của lịch
sử và với một khát vọng cháy bỏng về giải phóng dân tộc, người thanh niên yêu
nước nồng nàn Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi khắp
các châu lục, qua gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố, vượt qua muôn vàn gian
khổ, chông gai và làm rất nhiều nghề để kiếm sống, để học những “sàng khôn” của
nhân loại. Chính hành trình này đã giúp Người thanh niên Việt Nam hiểu rõ cội
nguồn những khổ đau của các tầng lớp nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột
của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Với quyết
tâm hướng tới: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, Nguyễn Tất
Thành đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử
và đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu lịch sử
và dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, người thanh niên Nguyễn
Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động, dày công chuẩn bị cả về
tư tưởng, lý luận và con người cho sự ra đời của một tổ chức chính trị tiên
phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
Việt Nam thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường
Kách Mệnh (1927), đào tạo cán bộ cách mạng và thúc đẩy phong trào đấu tranh
trong nước.
Ngày 03/02/1930, tại Cửu
Long (Hồng Kông, Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội
nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã diễn ra, thống nhất thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là một quyết định có ý nghĩa lịch sử trọng đại, quy tụ
các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một lực lượng duy nhất, có đường lối cách mạng
rõ ràng, thống nhất. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu
cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các
tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc. Sự kiện lịch sử
này đã chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối và tổ chức của cách mạng Việt Nam, mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta - kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi thành lập, với
đường lối đúng đắn, với phương pháp thích hợp và sáng tạo, với năng lực tổ chức
thực tiễn và sự chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ,
đảng viên, và sự tin yêu, đùm bọc, hết lòng che chở, bảo vệ của nhân dân, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước giành được những thắng lợi to lớn có ý
nghĩa lịch sử và thời đại.
Chỉ trong vòng 15 năm
sau khi ra đời, Đảng ta đã không ngừng phát triển và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, thành lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào ngày 02/09/1945, xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa
phong kiến ở Việt Nam, mở ra chương mới của lịch sử dân tộc. Nhân dân Việt Nam
từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và cuộc
sống của chính mình.
Ngay sau thành công của
Cách mạng Tháng Tám, đất nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách;
cùng một lúc phải đương đầu với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong
hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta kiên cường bảo
vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối đúng đắn, phát huy
được sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại
mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù trong chín năm kháng chiến gian khổ và
anh dũng, đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải
ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) về hòa bình ở Đông Dương.
Trong suốt hơn hai
mươi năm sau đó, đất nước ta bị chia cắt và chưa có hoà bình. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với một ý chí sắt đá và quyết tâm không gì có
thể lay chuyển, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, thực hiện
cuộc kháng chiến vĩ đại, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, viết nên một trong những
trang sử hào hùng nhất của dân tộc, một sự kiện có tầm vóc quốc tế và có tính
thời đại sâu sắc. Đây là sự hiện thực hóa của tầm nhìn và quyết tâm mà Đảng ta
đã đưa ra từ Đại hội III (tháng 9/1960): “Nước Việt Nam ta là một, dân tộc Việt
Nam ta là một. Nhất định nước ta sẽ được thống nhất trên cơ sở độc lập và dân
chủ, nhất định dân tộc sẽ được đoàn tụ trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng ý chí thống nhất Tổ quốc của nhân dân cả nước
ta quyết không bao giờ lay chuyển và cuối cùng chúng ta nhất định sẽ giành được
thắng lợi”.
Trong lúc phải khẩn
trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do chiến tranh để lại, đất nước
ta lại tiếp tục phải đương đầu với những thử thách mới. Đảng tiếp tục lãnh đạo
toàn quân và toàn dân ta vừa ra sức khôi phục kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
của người dân, vừa kiên cường chiến đấu giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của
Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không gian sinh tồn của
dân tộc. Đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia.
Trước những yêu cầu mới
trong phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu, bao cấp dẫn tới khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm sau chiến
tranh, trên cơ sở tổng kết sáng kiến, sáng tạo trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng và sự thực thi của cả hệ thống chính trị và nhân dân, Đảng ta đã đề ra
và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng
trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới ra đời
đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn quá trình xây dựng nền kinh tế, nền quốc
phòng, an ninh, công tác đối ngoại của đất nước, thể hiện bản lĩnh vững vàng,
tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát
triển của đất nước.
Sau gần 40 năm thực hiện
công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua mọi khó
khăn, vươn tới những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo
nàn, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành
nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính
trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng
trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa
phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đã đạt
trên 470 tỉ USD, đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu
về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện
rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93 % (theo chuẩn đa chiều) so
với mức 60% năm 1986. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học -
công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao. Cục diện đối ngoại không
ngừng được mở rộng; vị thế, uy tín của đất nước không ngừng được lan tỏa, có những
đóng góp tích cực vào giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, đã thực hiện
nhiều nhiệm vụ trong vai trò thành viên ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức, thể
chế quốc tế khác được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Những thành tựu to lớn
của cách mạng Việt Nam suốt 95 năm qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu, cùng sự
hy sinh, chiến đấu, lao động sáng tạo của toàn dân, toàn quân dưới ngọn cờ lãnh
đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Trong những thời điểm khó khăn,
thử thách, Đảng ta đã thể hiện rõ bản lĩnh, tinh thần đoàn kết, là một khối thống
nhất về ý chí và hành động, từ đó lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nỗ lực
cố gắng đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Đồng thời,
thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng
thành, vững mạnh, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin
cậy, kỳ vọng của nhân dân. Thực tiễn đó đã khẳng định: ở Việt Nam, không có một
lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, bản
lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Nhìn lại chặng đường
95 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta
bày tỏ lòng biết ơn vô hạn và thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
- vị lãnh tụ thiên tài, người Anh hùng giải phóng dân tộc, người đã khai sáng
con đường cách mạng, làm rạng danh non sông ta, đất nước ta. Chúng ta cũng
thành kính tưởng nhớ các đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng, các anh hùng liệt
sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu kiên cường và hy sinh quên mình trong sự
nghiệp cách mạng vẻ vang vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì
cuộc sống bình yên, hạnh phúc và ấm no của nhân dân.
Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của những người có công với nước, các gia
đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng
lao động, các thương binh, bệnh binh, các đồng chí từng bị giam cầm trong nhà
tù của thực dân, đế quốc, các chiến sĩ đã chiến đấu trên mọi mặt trận và thực
hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, các cựu chiến bình và những người miệt mài lao động,
sáng tạo làm ra của cải vật chất cho xã hội. Chúng ta cũng luôn biết ơn các đồng
chí, bạn bè quốc tế đã luôn đồng hành, ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như tiếp tục hợp
tác, hỗ trợ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay.
Nhìn lại lịch sử, truyền
thống vẻ vang và đầy tự hào của Đảng trong 95 năm qua, chúng ta càng thấy rõ
hơn trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo và đảng viên hôm nay trong tiến trình lịch
sử của dân tộc. Sứ mệnh của Đảng hiện nay là phải lãnh đạo, đưa đất nước bước
vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, xây dựng thành công nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh
vai với các cường quốc năm châu; bảo đảm mọi người dân đều có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa
bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, vì hạnh phúc của nhân loại
và văn minh toàn cầu. Ưu tiên hàng đầu là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến
lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát
triển, có thu nhập cao.
Để tiếp tục gánh vác
trọng trách đó của lịch sử, Đảng phải không ngừng lớn mạnh, giữ vững bản chất
cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu và sự gắn bó mật
thiết với nhân dân. Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phát huy dân chủ
trong nội bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, trong sạch, kiên định với mục
tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Đảng
phải không ngừng hoàn thiện lý luận, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tạo
nền tảng vững chắc để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững. Trước những
yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng và những thách thức từ tình hình thế giới, công tác xây dựng Đảng càng
cần được quan tâm, đổi mới và thực hiện quyết liệt hơn nữa, tập trung vào các
nhóm vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, tiếp tục kiên
định mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đảng ta ra đời với sứ mệnh lãnh đạo cách mạng,
đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, đến khi trở thành
Đảng cầm quyền, Đảng luôn kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng không tồn tại vì lợi
ích riêng mà hoạt động vì quyền lợi của toàn dân. Quyền lực lãnh đạo của Đảng
không phải tự thân mà có, mà do nhân dân trao quyền, là sự ủy thác của nhân
dân. Đảng không có mục đích nào khác là đấu tranh vì lợi ích của nhân dân, quốc
gia và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Chính vì vậy, Đảng phải luôn gắn
bó mật thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cao nhất, giữ
vững bản chất cách mạng và vai trò tiên phong của mình. Trong bối cảnh hiện
nay, Đảng càng phải kiên định nền tảng tư tưởng của mình, tiếp tục vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, bảo vệ vững
chắc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Đảng phải không ngừng đổi mới,
tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh để tiếp tục dẫn dắt dân tộc trên con đường phát triển trong kỷ nguyên
mới, hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, không ngừng
hoàn thiện hệ thống lý luận của Đảng. Nền tảng lý luận vững chắc là kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, quyết định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo và chiến
lược phát triển đất nước. Trải qua hơn 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng đã đúc kết
nhiều bài học kinh nghiệm, từng bước phát triển tư duy lý luận về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quốc phòng, an
ninh và đối ngoại cùng nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Việc hoàn thiện nền tảng
lý luận là yêu cầu cấp thiết để Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước trong bối cảnh
thế giới hôm nay đang diễn ra những biến chuyển sâu sắc trên tất cả các mặt của
đời sống. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, thực tiễn luôn đặt ra những vấn
đề mới, đòi hỏi Đảng phải không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận.
Công tác tổng kết thực
tiễn cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá chính xác kết quả đạt được, thẳng thắn,
khách quan chỉ ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân; nhận diện
rõ những điểm nghẽn, nút thắt đang kìm hãm sự phát triển của đất nước, từ đó đề
xuất các giải pháp đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển trong
thời gian tới. Công tác nghiên cứu cũng cần chỉ rõ hơn đâu là cơ hội lớn cần tận
dụng, đâu là thách thức lớn cần vượt qua, những yếu tố mới của thực tiễn cần bổ
sung là gì. Sự thẳng thắn, khách quan, khoa học, trung thực, kiên định và thận
trọng là cần thiết để tránh sai lầm, duy ý chí. Các vấn đề này cần được làm rõ
trong quá trình xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV.
Đây không chỉ là công việc của cơ quan chuyên môn của Đảng mà còn đòi hỏi sự
tham gia của toàn hệ thống chính trị, đội ngũ trí thức, các cơ quan nghiên cứu
lý luận và từng cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước.
Ba là, tiếp tục xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đối
với sự tồn tại, phát triển của Đảng. Cần không ngừng củng cố sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng tổ chức Đảng;
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong hệ
thống chính trị và gắn bó mật thiết với nhân dân. Đồng thời, cần tiếp tục tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình, kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát để giữ vững kỷ luật, kỷ cương
trong Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí cần được tiếp
tục triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản, không có vùng cấm,
không có ngoại lệ, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, góp phần làm trong sạch bộ máy, củng
cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu
các cấp ủy đảng cần đề cao trách nhiệm nêu gương, luôn lắng nghe ý kiến của
nhân dân, kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo sự
đồng thuận xã hội. Đồng thời, cần phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với
cán bộ, đảng viên, bảo đảm Đảng luôn là lực lượng lãnh đạo trung thành với lợi
ích của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Bốn là, quyết tâm củng
cố tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, khắc phục tình trạng cồng kềnh, chồng chéo. Trong nhiều kỳ đại hội gần
đây, các văn kiện đại hội đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức
bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính
trị trong giai đoạn mới. Đảng cũng đã liên tục ban hành nhiều Nghị quyết, Kết
luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị. Tuy nhiên, nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập
thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương chưa
đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa quyết liệt, việc sắp xếp
tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại...
Chính vì vậy, cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều
cơ quan, bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo; phân định trách
nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm thay, có
nơi bỏ sót hoặc không đầu tư thích đáng. So với những thay đổi to lớn của đất
nước sau 40 năm đổi mới, sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và những thành tựu khoa học công nghệ, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước
ta cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề
không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển; tạo ra
tình trạng “Nói không đi đôi với làm”. Vì vậy, công tác trọng tâm trong giai đoạn
hiện nay và thời gian tới là xây dựng và tổ chức thực hiện mô hình tổng thể tổ
chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong
giai đoạn cách mạng mới.
Năm là, chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Trước yêu cầu phát triển và hội
nhập ngày càng cao, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, phải đáp ứng
những tiêu chuẩn quan trọng: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có đạo đức trong
sáng, tinh thần trách nhiệm cao, thực sự gương mẫu, liêm chính, tận tụy phục vụ
nhân dân, không vụ lợi cá nhân, không tham nhũng, tiêu cực; có tư duy đổi mới,
sáng tạo; biết nắm bắt cơ hội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi
ích chung, không né tránh, trì trệ, thụ động trước những vấn đề mới phát sinh;
có năng lực thực tiễn, khả năng lãnh đạo, quản lý. Để làm được điều này, cần đổi
mới mạnh mẽ tư duy trong công tác cán bộ. Các quy trình về công tác cán bộ phải
trở thành cơ chế để lựa chọn người tốt nhất, người xứng đáng nhất, chứ không phải
là cơ chế để hợp thức hóa việc tuyển chọn, bổ nhiệm, đề bạt người không đảm bảo
tiêu chuẩn, không thực sự tiêu biểu, không thực sự vì dân. Ngoài việc minh bạch
hóa quy trình bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ và tăng cường kiểm tra, giám sát, cần
xây dựng cơ chế phát hiện, bảo vệ và trọng dụng người tài, đồng thời có cơ chế
xử lý trách nhiệm rõ ràng, trong đó ai giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ sai tiêu chuẩn,
thiếu phẩm chất, yếu năng lực thì phải chịu trách nhiệm. Đồng thời, cần kiên
quyết chống chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm trong công tác quy hoạch, bổ
nhiệm, sử dụng cán bộ.
Sáu là, tăng cường
công tác ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong công tác xây dựng Đảng.
Các tiến bộ về công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và chuyển đổi
số đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Việc ứng dụng các
thành tựu khoa học – công nghệ vào công tác xây dựng Đảng không chỉ là yêu cầu
cấp thiết mà còn là một bước đột phá nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng trong tình hình mới. Công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo sẽ
góp phần hiện đại hóa công tác quản lý đảng viên, điều hành tổ chức Đảng. Việc
xây dựng hệ thống quản lý đảng viên trên nền tảng số giúp tăng cường tính minh
bạch, chính xác và hiệu quả trong quản lý hồ sơ, quá trình công tác, đánh giá,
phân loại đảng viên. Điều này giúp các cấp ủy nắm bắt chính xác tình hình đội
ngũ, từ đó có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển hợp lý, khắc phục tình trạng
quan liêu, thiếu thực tiễn. Công nghệ số cũng giúp nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Các nền tảng số, mạng xã hội có thể
được sử dụng để tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng đến đông đảo cán bộ,
đảng viên và nhân dân một cách nhanh chóng, sinh động, hiệu quả. Các công nghệ
mới cũng giúp nâng cao năng lực phát hiện sớm các vấn đề nổi cộm, phân tích, dự
báo, đề xuất giải pháp phù hợp. Công nghệ số cung cấp dữ liệu chính xác, khách
quan, giúp các cấp ủy đưa ra quyết định đúng đắn, dựa trên những phân tích khoa
học thay vì cảm tính.
Bảy là, nhiệm vụ trọng
tâm cấp bách trong năm 2025 của các cấp ủy đảng, từng chi bộ, mỗi đảng viên tập
trung sức lực, trí tuệ cùng nhân dân phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức
chỉ tiêu đã được nêu trong các Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, đặc biệt
chú trọng các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội; tổ chức tiến hành đại hội đại
biểu Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng,
trong đó chú trọng đóng góp ý kiến vào nội dung văn kiện của Đảng; giới
thiệu và lựa chọn những người thật tiêu biểu, vì nước, vì dân tham gia vào hệ
thống chính trị các cấp; tạo không khí thật sự dân chủ, đoàn kết, hăng say lao
động sản xuất, xây dựng, phát triển quê hương đất nước trong mọi tầng lớp nhân
dân.
Nhìn
lại 95 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng, chúng ta có quyền tự hào và hoàn
toàn tin tưởng vào tương lai rạng rỡ của Đảng và của dân tộc. Năm 1945, khi
lãnh đạo toàn dân thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta chỉ có gần
5.000 đảng viên, nhưng với đường lối đúng đắn, tinh thần kiên trung, ý chí quật
cường và lòng yêu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi vẻ vang, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến năm 1960, khi đất nước bước vào giai đoạn
kháng chiến trường kỳ chống Mỹ cứu nước, số lượng đảng viên đã tăng lên khoảng
500.000 người, trở thành hạt nhân dẫn dắt toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập,
thống nhất đất nước. Ngày nay, với hơn 5,4 triệu đảng viên, lực lượng của chúng
ta không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đủ sức gánh vác trọng
trách đưa đất nước tiến lên trong thời kỳ mới. Mỗi đảng viên chính là biểu tượng
của niềm tin, trí tuệ và ý chí đoàn kết của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam,
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ tiếp tục
hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình. Vững tin vào sức mạnh của Đảng và
sự đoàn kết của toàn dân tộc, chúng ta khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta sẽ đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển
nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, xây dựng một tương lai huy hoàng, rạng rỡ
cho dân tộc Việt Nam./.